
- Machu Picchu, Peru
Trong số hàng ngàn con đường được các nền văn hóa thời tiền Columbus xây dựng ở Nam Mỹ, thì những con đường mòn của người Inca là đáng chú ý nhất. Mạng lưới những con đường này hội tụ về thành phố Cusco- thủ đô của đế chế Inca trước kia.
Ngày nay, hàng ngàn khách du lịch đi trên những con mòn đường Inca, họ tới thành phố Cusco làm quen trước khi bắt đầu một chuyến đi bộ kéo dài bốn ngày từ thung lũng Urubamba dẫn lên tận dải núi Andes để viếng thăm tàn tích Machu Picchu.
Machu Picchu có lẽ là biểu tượng thân thuộc nhất của Đế chế Inca. Thường được gọi là “Thành phố đã mất của người Inca”, từ năm 1983 địa điểm này đã được lựa chọn trở thành một Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO và năm 2007 được cộng đồng thế giới bình chọn là một trong 7 kì quan thế giới thông qua mạng xã hội. Năm 1981, Peru tuyên bố diện tích 325,92 km2 xung quanh Machu Picchu là khu đền đài lịch sử. Ngoài các di tích này, khu bảo tồn còn bao gồm một phần lớn những khu vực liền kề rất phong phú với hệ thực vật và động vật.
Machu Picchu nằm trên một sườn núi trong thung lũng Urubamba ở Peru, cách thành phố Cusco khoảng 80 km về phía Tây Bắc, thông qua các dòng sông Urubamba. Machu Picchu được xây dựng theo lệnh của hoàng đế Inca Pachacuti (1438-1472) để ăn mừng chiến thắng sau khi thu phục được bộ tộc Chancas. Nơi đây thường được gọi là “Thành phố bị mất của người Inca”. Từ “bị mất” là bởi nó chỉ được tái phát hiện vào năm 1911 bởi sử gia người Mỹ Hiram Bingham. Kể từ đó, Machu Picchu đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch quan trọng nhất ở Peru, là biểu tượng quen thuộc nhất của thế giới Inca.
Machu Picchu được mô tả như “một kiệt tác kiến trúc tuyệt vời và là một chứng ngôn độc đáo của nền văn minh Inca”. Nó được xây dựng theo phong cách cổ điển của người Inca, gồm các bức tường đá khô không dùng vữa. Nhiều mối nối hoàn hảo đến mức thậm chí không thể lách một lưỡi dao vào giữa các phiến đá.
Người Inca bắt đầu xây dựng thành phố vào khoảng năm 1400, gồm một số đền thờ, cung điện và ruộng bậc thang với hàng trăm bậc thang đá dốc. Triều đại Pachacuti được bao phủ hầu hết là các bức tường đá xung quanh các tòa nhà, các ngôi đền thạch cao màu vàng và đỏ. Nhưng tiếc thay, công trình chưa hoàn thành thì đã bị bỏ rơi cho tới một thế kỉ, sau đó là thời điểm chinh phạt của người Tây Ban Nha và cuối cùng Machu Picchu trở thành lãnh địa của họ.
Ba khu vực chính trong Machu Picchu là khu vực linh thiêng, khu vực dân chúng ở phía Nam và khu vực của các thầy tu cùng với tầng lớp quý tộc. Trong đó, khu vực linh thiêng được các nhà khảo cổ học quan tâm nhất.
Nhưng địa điểm thiêng liêng nhất trong Machu Picchu là ngôi đền mặt trời nằm ở điểm cao nhất trong thành phố. Ngôi đền này trong giống như một ngọn đuốc được thắp sáng cả ngày lẫn đêm, khi mặt trời chiếu sáng xuyên qua những ô cửa và bức tường mỗi năm một lần. Ở một góc độ chuẩn xác thì đó cũng là thời điểm mà mặt trời ở xa trái đất nhất. Nhà khảo cổ học Johan Reinhard đã đưa ra những bằng chứng cho thấy nơi này đã được hoàng đế Inca lựa chọn làm nơi nghỉ dưỡng vì vị trí của nó tương ứng với số đặc điểm của một vùng đất thiêng liêng, đặc biệt với những ngọn núi thẳng hàng với các sự kiện thiên văn quan trọng.
Bingham bắt đầu nghiên cứu và hoàn thành một cuộc khảo sát khu vực. Ông gọi Machu Picchu là “Thành phố bị mất của người Inca”, lấy nó làm tiêu đề cho cuốn sách mà ông viết về việc phát hiện ra Machu Picchu đầu tiên của mình. Bingham đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Machu Picchu và tiến hành khai quật khu vực này từ năm 1915, và thu thập được nhiều hiện vật khác nhau đem trở về trường đại học Yale. Trong tháng 9/2007, đại học Yale đã đồng ý trả lại hiện vật mà nhà sử học Hiram Bingham thu thập được trong những năm đầu của thế kỉ 20 về cho đất nước sở tại (Peru).

2. Petra, Jordan
Đất nước Jordani nhỏ bé nằm ở Trung Đông với phần lớn lãnh thổ bị sa mạc bao phủ, vốn là một vùng đất huyền thoại cùng những câu chuyện truyền thuyết tồn tại đến ngày nay. Nhắc đến Jordani không thể không nhắc đến thành phố cổ Petra huyền thoại, được công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1985 và được mô tả là “một trong những tài sản văn hoá quý giá nhất của nhân loại”.
Đến năm 2007, Petra được UNESCO công nhận là 1 trong số 7 kỳ quan mới của thế giới.
Vào Thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, những người đầu tiên của bộ lạc Nabataean đã xây dựng bên trong những rặng núi đá sa thạch đỏ vô số đền đài, lăng tẩm, nhà hát, các công trình sinh hoạt cùng một hệ thống dẫn nước cực kỳ tiên tiến. Sau đó, thành phố này đã bị lãng quên giữa ma trận của đá, cát và thời gian. Mãi đến năm 1812, Johann Ludwig Burckhardt, một khách du lịch người Thụy Sĩ đã cải trang thành một nhà tuyền giáo và phát hiện ra thành phố này.

Lối vào thành cổ Petra
Đến thế kỷ XX, thành cổ Petra trở thành điểm du lịch nổi tiếng thế giới bởi nơi đây là tổng hợp tất cả các phong cách kiến trúc của Ai Cập, Syria, Hy Lạp và La Mã, điều đó chứng tỏ rằng nơi đây từng là trung tâm giao lưu với các nền văn hóa lớn.
Hơn hẳn hình dung của tôi về địa danh này qua sách báo trước khi đến đây, Petra giống như 1 kiệt tác thiên nhiên giữa sa mạc. Đó là 1 thành cổ được khoét sâu vào vách đá, xung quanh là các vách đá cheo leo bao bọc.
Con đường dẫn đến thành phố thông qua 1 khe núi chỉ rộng 2m với vách núi ở đây dựng đứng cao từ 80-100m 2 bên. Sau khi đi bộ khoảng 2km, vừa ra khỏi khe núi, phía trước mặt, hiện ra trước mắt tôi công trình có giá trị nhất ở Petra, Al Khazneh – có nghĩa là “Kho báu”, tạc dựng ngay vào sườn núi.
Tuy nhiên, nó không phải là một kho báu vì hình dạng ngoài của nó giống một ngôi đền hay một ngôi mộ hoàng gia. Tên của nó bắt nguồn từ niềm tin của hải tặc thời bấy giờ đó là bọn chúng giấu kho báu cổ xưa trong những “tholos” – những chum đá lớn.
Ngồi trên lưng lạc đà, tôi đi tham quan lăng mộ Khaznek el Faroun với mặt tiền uy nghi cao khoảng 40m bằng đá đẽo cắt trực tiếp từ sườn núi đá. Mặt sau của chính diện có một phòng lớn hình vuông cũng bằng đá đẽo. Nó cũng là lăng mộ bằng đá đẽo qui mô duy nhất tại Petra dựa theo kiến trúc Hy Lạp cổ. Bạn đùng bỏ lỡ chuyến hành trình vào sa mạc Wadirum để trải nghiệm cảm giác tuyệt vời tại xa mạc và thưởng thức cùng một bữa trưa do người địa phương nấu ngay tại trên sa mạc nhé!

3. Luxor, Egypt
Nếu có một nơi mà bạn có thể được vận chuyển trở lại trong thời gian, đây là nó. Đền Luxor và Đền Karnak đã được thành lập vào năm 1400 trước Công nguyên và có đến hàng trăm cột trụ cổ đại mà sẽ để lại đau cổ của bạn vào cuối ngày do nhìn chằm chằm về phía hàng ngàn chữ tượng hình mà thấm mọi bề mặt. Nguyên hai ngôi đền này đã được kết nối thông qua một đường đám rước đá dài được gọi là một Dromos, và xếp hàng với hàng ngàn Nhân sư đá.
Tham quan Luxor – từng có thời kỳ là kinh đô của Ai Cập, được xây dựng trên di chỉ thành Thebes, là khu du lịch đầu tiên của Ai Cập. Thành Luxor cắt ngang qua haib trung lưu sông Nile, là thủ đô của vương quốc Ai Cập cổ và thời kỳ vương quốc mới. Thành Luor đã trải qua 3000 năm lịch sử, trong thành có rất nhiều di tích cổ….Tìm hiểu: Thung lũng Vua – The Valley of the Kings.
Tham quan: Luxor temple & Karnak Temple – Hai ngôi đền này được thông nối liền cùng nhau bởi một đại lộ dẫn đến các tượng nhân sư. Đền Luxor – có khí thế hùg vĩ khiến chúng ta phải kinh ngạc, ở cửa chính có ba bức tượng Lamexisi rất lớn……Đền Karnak – là ngôi đền thiêng liêng nhất Ai Cập, thờ thần tối cao – thần Amon.

4. Taj Mahal , Ấn Độ
Công trình kiến trúc nằm ở thành phố Agra bang Uttar Predesh, cách thủ đô New Delhi 200 km về phía nam. Agra vốn là thủ phủ của những hoàng đế Hồi giáo (Mughal) thống trị miền Bắc Ấn Độ từ thế kỷ 16 đến 19. Triều đại của Mughal thịnh vượng nhất vào các đời hoàng đế Akbar, Jehangir, và Shah Jehan.
Một trong 7 kì quan của thế giới
Taj Mahal là một trong bảy kỳ quan của thế giới, và một số sử gia phương Tây còn cho rằng vẻ đẹp của kiến trúc này là thứ mà không công trình nào khác vượt qua được.
Taj Mahal được xây dựng hoàn toàn bằng đá cẩm thạch trắng. Cảnh quan tuyệt đẹp đặc biệt là lúc bình minh và hoàng hôn. Taj Mahal dường như phát sáng rực rỡ nhất dưới ánh trăng. Vào một buổi sáng sương mù, du khách trải nghiệm Taj Mahal như thể bị chìm đắm bởi vẻ đẹp của nơi đây khi nhìn từ bên kia sông Yamuna.
Taj Mahal được coi là hình mẫu tuyệt vời nhất của Kiến trúc Mughal, một phong cách tổng hợp các yếu tố của các phong cách kiến trúc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, và Hồi giáo. Tuy phần mái vòm bằng đá cẩm thạch trắng của lăng là phần nổi bật nhất, thực tế Taj Mahal là một tổng hợp các phong cách kiến trúc.
Taj Mahal được được liệt vào danh sách các địa điểm di sản thế giới của UNESCO năm 1983 và được miêu tả là một “kiệt tác nên được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giới”.
Việc xây dựng Taj Mahal đã bắt đầu tại Agra ngay sau cái chết của hoàng hậu Mahal Mumtaz. Công việc xây dựng bắt đầu năm 1632 và Taj Mahal được xây dựng trong khoảng thời gian 16 năm, sử dụng 20.000 công nhân. Nó được hoàn thành vào năm 1648.
Theo truyền thuyết, năm 1631, Mumtaz Mahal, vợ hoàng đế Shah Jahan (lên ngôi năm 1627) qua đời sau khi sinh cho ông đứa con thứ mười bốn
Đau xót trước cái chết của người vợ yêu dấu, đức vua đã ra lệnh xây dựng một lăng mộ bên sông Yamuna. theo đạo Hồi, hoàng đế Shah Jahan có quyền cưới 4 bà vợ, nhưng vì tình yêu với Mumtaz Mahal, ông chỉ lấy một mình bà.
Sau 19 năm, ông sống phần còn lại của đời mình một mình, và bỏ ra 16 năm theo dõi việc xây dựng Taj Mahal để thể hiện tình yêu của mình với người vợ quá cố.
Những cuốn biên niên sử triều đình thời kỳ đó còn chứa nhiều câu chuyện liên quan tới nỗi buồn đau của Shah Jahan trước cái chết của Mumtaz. Sử sách đã ghi chép rằng: chỉ qua một đêm sau khi vợ mất, râu và tóc của nhà vua đã trở nên bạc trắng
Mỗi ngày có hàng nghìn khách du lịch trên thế giới đến thăm ngôi đền này. Taj Mahal càng trở nên hấp dẫn hơn khi khách du lịch được nghe kể về tình yêu của vị hoàng đế Ấn Độ dành cho vợ.

5. Bagan, Miến Điện ( Myanmar)
Trong số các di tích lịch sử quyến rũ nhất trên hành tinh, Bagan cho chúng ta một trải nghiệm mà bạn sẽ nhớ tới phần còn lại cuộc sống của bạn. Nằm ở trung tâm đồng bằng bụi bặm của Miến Điện (Myanmar), trong khu vực nhỏ của khảo cổ học khu Bagan, ngồi khoảng 2.200 ngôi chùa (có, hoàn toàn đáng kinh ngạc!). Mặc dù, khu vực này ban đầu được đặt trên 10.000 Bhuddhist temles, chùa chiền và tu viện trong các ngày 9 đến thế kỷ 13 khi trung tâm Bagan là thủ đô của Vương quốc Pagan.
Thánh địa Phật giáo Bagan là một di tích lịch sử nổi tiếng ở vùng Mandalay, khu
vực đồng bằng miền trung đất nước Myanmar. Đây là một thành phố cổ có hàng
nghìn đền chùa, tự viện độc đáo còn được bảo tồn trên diện tích hàng chục km2.
Thành phố Bagan đã tồn tại từ thế kỷ 9 cho đến thế kỷ 13 trong vai trò kinh đô
và là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của vương quốc Pagan.
của vua Anawrahta. Anawrahta đã mang về Bagan nhiều thánh tích và kinh văn
Phật giáo từ Thaton cùng với nhiều nghệ sĩ, kiến trúc sư, là cơ sở cho công cuộc
kiến thiết thành phố Bagan tráng lệ.
Tầng lớp thượng lưu Bagan đã cho xây dựng hàng ngàn đền thờ và tu viện trên
bình nguyên Bagan. Theo ước tính, có khoảng hơn 10.000 ngôi chùa tháp Phật
giáo được xây dựng trong khoảng diện tích 100 km vuông ở vùng đồng bằng
trung tâm Myanmar dưới triều đại Pagan, biến nơi đây thành điểm hành hương
linh thiêng của những tín đồ đạo Phật.
Trong thời hoàng kim, Bagan đã trở thành một trung tâm nghiên cứu tôn giáo và
thế tục của toàn thế giới. Các tu sĩ và học giả từ khắp nơi như Ấn Độ, Sri Lanka
và người Khmer đến Bagan để nghiên cứu ngôn điệu, ngữ âm, ngữ pháp, chiêm
tinh học, thuật giả kim, y học và pháp luật.

6. Kim tự tháp của Meroe, Sudan
Đây là các đảo giữa sông Nile và sông Atbara, trung tâm của vương quốc Kush, tồn tại từ thế kỷ thứ 8 TCN đến thế kỷ 4. Đây là cảnh quan bán sa mạc bao gồm thành phố hoàng gia của Kushite, Naqa và Musawwarat es Sufra.
Địa điểm khảo cổ đảo Meroe bao gồm các tàn tích thành phố\, lăng mộ hoàng gia và hai khu định cư Musawwarat es-Sufra và Naqa được xây dựng ven sông. Các loại hình kiến trúc được xây dựng bao gồm các kim tự tháp, đền đài, cung điện đại diện cho nghệ thuật, tôn giáo miền Bắc thung lũng sông Nile với lịch sử 1.000 năm.
Có khoảng 40 kim tự tháp được xây dựng trên sa mạc ở Meroë, nằm trên vùng đất trước đây là Nubia, một vùng gồm nhiều quốc gia nhỏ nằm giữa Sudan và Ai Cập. Mặc dù chỉ thuộc dạng “tí hon” so với những kim tự tháp ở Ai Cập khi tòa tháp cao nhất cũng “chỉ có” 30m, tuy nhiên độ dốc của những kim tự tháp này cũng khiến người ta phải ngạc nhiên.
Nền văn minh của Meroë chịu ảnh hưởng lớn từ nền văn minh Ai Cập, đó là lý do giải thích cho việc có rất nhiều điểm tương đồng trong cách xây dựng những kim tự tháp này, nhất là trong việc chúng được dùng làm lăng mộ cho hoàng tộc.
Những kim tự tháp ở Sudan được xây dựng với cấu trúc và các lớp được tính toán tỉ mỉ nhưng theo thời gian chúng đã trở nên lỏng lẻo, nhanh chóng hư hại. Lý do là vì phần lõi bên trong được xây dựng có phần cẩu thả, loại đá được dùng khá nhỏ và không ăn khớp với nhau. Tuy được dùng cho việc mai táng người trong hoàng tộc nhưng tính đến nay, chưa từng có bất kỳ kho báu hay xác ướp nào từng được tìm thấy trong các kim tự tháp này.

7. Đền Ta Prohm, Campuchia
Bạn đã nhìn thấy nó trên truyền hình và trên internet, nhưng không có gì khá so sánh để khám phá những di tích trên chân. Lớn hơn bạn có thể mong đợi, bạn có thể dành một thời gian khá dài bị mất. Ở đây bạn sẽ làm việc theo cách của bạn sâu hơn vào mê cung của dây leo, rễ và đổ nát. Nó giống như bạn đã bước vào một lĩnh vực huyền bí trong một cuốn sách về hình ảnh. Trong số tất cả các di tích nằm bên ngoài của Siem Reap, Đền Ta Prohm có bánh do cách độc đáo của nó.
Ta Prohm là tên gọi hiện đại của một ngôi đền tại Angkor, Campuchia, được xây theo phong cách Bayon phần lớn vào cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13, ban đầu được gọi là Rajavihara. Tọa lạc cách Angkor Thom về phía đông và nằm ở cạnh phía nam của Đông Baray gần Tonle Bati, ngôi đền này đã được thiết lập bởi vua Khmer Jayavarman VII làm một tu viện và trường học Phật giáo Đại thừa. Không giống như phần lớn đền tại Angkor, Ta Prohm đã bị bỏ quên với điều kiện như lúc mới xây: cảnh cây cối xung quanh phế tích và các khu rừng nhiệt đới bao quanh nó đã khiến nó là một trong những ngôi đền tại Angkor được du khách viếng thăm nhiều nhất.
