Nghề luật sư ở Việt Nam

  Posted by Việt Anh :


Tác giả: Theo FB Binh Nguyen Thanh


Đây là một bài viết rất hay. Người ngành luật và dân học luật nên đọc bài này. Một bài viết rất căn bản để hiểu về nền tư pháp VN theo định hướng XHCN. Đọc bài này sẽ hiểu vì sao, một quyền của nghi can là quyền im lặng cũng bị chính những người trong ngành tư pháp nước Việt phản đối. Bởi tư duy của họ đã nhuộm quá lâu trong nền tư pháp định hướng XHCN.


Đến bao giờ mô hình tòa thẩm vấn được thay thế bằng mô hình tòa tranh tụng, hẳn khi đó, vai trò, vị thế luật sư mới đặt đúng chỗ. 

—————-


PHẦN I: ĐẶC THÙ MÔ HÌNH TÒA THẨM VẤN


Để hiểu biết nghề luật sư đòi hỏi người ta phải có đủ kiến thức, khách quan và trải nghiệm.

Nếu với những mục tiêu trên thì ở Việt Nam ta, người hiểu biết nghề luật sư là rất hiếm bởi những lẽ sau đây:


1. Về kiến thức, tuyệt đại đa số các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ pháp lý… của nước ta đều được đào tạo ở Nga, Liên Xô cũ, Trung Quốc, và một số các nước XHCN trước đây. Và ai cũng thừa biết rằng những nước này thì làm gì có nghề luật sư. Có chăng cũng chỉ như một con tem nhòe, nhàu nát được dán ở đít con voi.



Trên thế giới, nghề luật sư chỉ tồn tại và phát huy ở những nước dân chủ và có nền tư pháp tranh tụng. Còn ở những nước có nền tư pháp thẩm vấn thì chẳng bao giờ người ta cần luật sư. Có chăng nó cũng chỉ như một thứ đồ trang trí vô bổ trong các quầy hàng xén… Pháp luật và công lý do chính quyền và đội ngũ cán bộ công chức có quyền định đoạt. Hệ thống pháp luật chỉ là biểu hiện ý chí của các nhóm lợi ích tiếm quyền chi phối, thao túng và tha hóa xã hội.


Nước ta hiện nay (cũng như các nước trong phe XHCN) là một nước theo chế độ tập quyền có cái gọi là “tập quyền nhà nước XHCN” được tạo dựng trên cơ sở của nền chuyên chính vô sản, được bảo vệ bằng sức mạnh bạo lực (súng đạn, dùi cui, khí giới, nhà tù, trại giam, trại tập trung…), sự hình thành chính quyền cũng thế – súng đẻ ra chính quyền. Và lẽ tất nhiên chính quyền đó được thiết lập bằng sức mạnh của toàn dân tộc và sự hi sinh xương máu của hàng triệu người dân.


Tư pháp nước ta là tư pháp thẩm vấn gọi là tư pháp XHCN, có bản chất mà mọi học trò trong các trường luật được tiếp thu từ các bài giảng gọi là bản chất giai cấp (như bản chất nhà nước, bản chất pháp luật…) khác với các chế độ khác, còn tính chất và nội dung thì cũng như tư pháp của các chế độ phong kiến, cực quyền. Trên thế giới hiện nay chỉ còn vài nước áp dụng loại tư pháp này (Trung Quốc, Triều Tiên, Lào…).

Tư pháp thẩm vấn là loại tư pháp chỉ đề cao và tập trung vào vai trò định đoạt, quyết định của nhà nước và đội ngũ công chức (Tòa án, Kiểm sát, cơ quan điều tra, Thẩm phán, KS viên, điều tra viên…).


Và lẽ tất nhiên, khi ưu quyền này thuộc về nhà nước thì sư tham gia tố tụng của luật sư chẳng có ý nghĩa gì, có chăng chỉ là sự tham khảo. Trước đây, trong hàng ngàn vụ án, may ra chỉ có một đôi vụ có sự tham gia bảo vệ, bào chữa của luật sư. Nay thì tỷ lệ này có nhích lên nhưng cũng chỉ có khoảng trên dưới 10%. Đặc biệt là trong giai đoạn điều tra án hình sự thì tỷ lệ này không đáng kể, luật sư chỉ được buộc phải có trong những tội phạm có mức án tử hình, bị can là vị thành niên, người bị tâm thần…


Trong nền tư pháp thẩm vấn, quan tòa hầu như là người làm ra luật (hệ thống PL tư pháp như các luật tố tụng, các luật liên quan đến xét xử…) hoặc chí ít là nắm quyền giải thích luật, nghĩa là buộc phải hiểu theo ý chí của tòa án.


Ở nước ta cũng như cơ quan hành chính, hầu hết các luật về tư pháp đều do các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động soạn thảo, sau đó thông qua một số thủ tục lập pháp (Quốc hội, mà đa số đại biểu không phải là nhà làm luật chuyên nghiệp, thẩm định, thảo luận, rồi biểu quyết thông qua). Còn việc thi hành các văn bản luật này phải phụ thuộc vào giải thích của các cơ quan soạn ra luật đó (dưới hình thức các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán tòa án tối cao, văn bản của viện KSND tối cao, Thông tư của bộ trưởng CA, các văn bản liên tịch…)


Việc đề cao gần như tuyệt đối thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan này mặc nhiên quyết định, định đoạt một cách chủ quan, thiếu khách quan, minh bạch. Đội ngũ những người tiến hành tố tụng cũng vậy, họ không quan tâm đến trình độ, năng lực, chỉ cần dựa vào quyền (xem thêm trình độ năng lực thẩm phán ở một số thời kỳ, hoặc đọc lại một số bản án, thậm chí một số bản án có mức hình phạt tử hình…).


Cũng chính vì vậy, trong các bước cải cách tư pháp ở nước ta lâu nay cũng chỉ chú trọng về thẩm quyền, vai trò của cơ quan tiến hành tố tụng, ít chú trọng đến yếu tố khách quan…

Rõ ràng trong điều kiện như vậy thì nghề luật sư khó có thể tồn tại và phát huy được…


Phần II: NGHỀ LÀM LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM

(Tiếp)


Ở Việt Nam, nghề luật sư có từ thời Pháp thuộc, được hình thành từ những năm cuối thế kỷ XIX và dần hoàn thiện cho đến 1945 – 1950. Thời Pháp thuộc, lãnh thổ nước ta được chia thành 3 kỳ với 3 chế độ chính trị – pháp lý khác nhau. Nam kỳ là xứ thuộc địa (thuộc cộng hòa Pháp). Bắc kỳ là xứ bảo hộ và trung kỳ thuộc chế độ phong kiến của nhà vua. Tương ứng với 3 chế độ pháp lý, nền tư pháp cũng có những đặc điểm khác nhau. Nam kỳ là tư pháp tranh tụng, Trung kỳ là tư pháp thẩm vấn (phong kiến), Bắc kỳ có nền tư pháp “cải lương” (cải cách theo hướng tranh tụng nhưng rất yếu, mờ nhạt, chủ yếu vẫn là tư pháp thẩm vấn…). Do vậy nghề luật sư lúc bấy giờ cũng chỉ hoạt động mạnh, chủ yếu ở Nam kỳ ( cần nhớ rằng, sau thế chiến 1, tư pháp của nước CH Pháp đã chuyển hẳn sang tranh tụng).


Chính vì hiểu được đặc điểm nền tư pháp nước ta lúc đó nên khi nhận bào chữa cho Tống Văn Sơ (một tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc người còn hoạt động cách mạng), luật sư Losoby đã có những đấu tranh để giữ lại xét xử ở tòa án Hoàng gia Anh tại Hồng Kông, mà nước Anh lại là một nước có nền tư pháp tranh tụng điển hình và lâu đời. Kết quả sau 9 phiên xét xử, Tống Văn Sơ vô tội, việc bào chữa của luật sư Losoby thành công tốt đẹp. Nếu không, Tống Văn Sơ mà bị dẫn giải về Việt Nam để xét xử thì điều chắc chắn là bị tử hình mà trên thực tế lúc đó Bác Hồ đã bị tòa án Trung kỳ tại Vinh đã tuyên tử hình vắng mặt, và nếu ông luật sư Losoby có sang Việt Nam để bào chữa thì chắc chắn bị thất bại.


Tuy nhiên, dù có những hạn chế nhất định do điều kiện chiến tranh, do đặc điểm chính trị… pháp luật và thiết chế tư pháp của nước CH Pháp vẫn rất tiến bộ và ngày càng có ảnh hưởng, được thừa nhận ngày càng rộng rãi ở Đông Dương cũng như ở Việt Nam. Cũng vì vậy mà ngay từ những ngày đầu mới giành chính quyền, tháng 10/1945 Hồ Chủ tịch đã ban hành sắc lệnh áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật của nước CH Pháp một cách thống nhất trên toàn cõi Việt Nam (xóa bỏ các chế độ pháp lý khác nhau giữa 3 kỳ). Nhưng thật sự đáng tiếc là hệ thống PL và Tư pháp này chỉ được tồn tại một thời gian ngắn, sự hoan hỉ của các luật sư còn sót lại sang chế độ mới cũng chỉ kéo dài được vài tháng (các luật sư này sau đó đều trở thành các quan chức cao cấp trong chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do chính sách thu hút tri thức của Hồ Chủ tịch)


Ở miền Bắc Việt Nam, từ 1954 đến 1975, về cơ bản, hệ thống pháp luật và thiết chế tư pháp hầu hết giống như Pháp luật và tư pháp của Liên Xô, Trung Quốc… (cùng là pháp luật XHCN). Nghề luật sư chỉ tồn tại ở mức Hiến pháp…


(còn nữa)


——-