Tình hình xã hội nhiều biểu hiện phức tạp có nguyên nhân tác động từ tình hình kinh tế rất rõ. Nguyên nhân chính dẫn đến tội phạm cũng gồm vấn đề suy thoái kinh tế, tỷ lệ người thất nghiệp tăng cao, làm tăng đầu vào của tội phạm của xã hội. Tỷ lệ người phạm tội không việc làm, cuộc sống không ổn định cũng tăng mạnh.
Những tác động từ tiêu cực từ văn hóa, xã hội, giáo dục đang làm thay đổi tình hình tội phạm. Tỷ lệ trẻ em thất học đang là một dấu hỏi đang biến thành những con số về số tội phạm trẻ tăng lên, tuổi phạm tội đã hạ xuống ngưỡng 13 tuổi. 90% các vụ giết người là do các nguyên nhân xã hội, trong đó 20% là người thân trong gia đình giết nhau…
Nhìn nhận các sự kiện này, từ nhà giáo dục đến các nhà quản lý, các bậc làm cha mẹ đã có rất nhiều ý kiến phân tích tìm ra nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân thường được dẫn ra như sau:
– Về phía gia đình: do cha mẹ mải làm ăn ít quan tâm đúng mức đến con cái, giao khoán việc giáo dục, dạy dỗ cho nhà trường.
– Về phía nhà trường: sự thiếu trách nhiệm trong việc giáo dục, quản lý của các thầy cô giáo, chỉ dạy “văn” (kiến thức) chứ không dạy “lễ” (đạo đức).
– Về phía xã hội: ít quan tâm đến nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh của các em, ảnh hưởng tai hại của các loại phim ảnh, mạng internet đen,…
Nhưng xem ra sự lý giải đó nhiều khi quá đơn giản, dễ dãi, chưa đi đến ngọn nguồn của vấn đề và thường cuối cùng là đổ lỗi “sự suy đồi về đạo đức, lối sống trong xã hội ta hiện nay, đặc biệt là bộ phận giới trẻ” cho “mặt trái cơ chế thị trường”, cho sự kém tu dưỡng, rèn luyện ở trẻ.
Môi trường giáo dục của giới trẻ. Như chúng ta đã thấy, gia đình, nhà trường và xã hội chính là môi trường văn hoá, môi trường giáo dục đào luyện lên thế hệ trẻ. Văn hoá, lối sống, đạo đức của giới trẻ là sự phản ánh chính xác môi trường gia đình, nhà trường, xã hội mà giới trẻ đang sống. Dù trong trường hợp nào, tại gia đình, nhà trường hay xã hội thì người lớn – người có tuổi cũng chính là người hướng dẫn, làm gương trẻ.
– Gia đình:
Gia đình của chúng ta hiện nay và cả ngày xưa nữa là gia đình hạt nhân gồm cha mẹ và con cái .Ngày xưa vì nghèo khó nên con cái phải lao động, làm lụng cùng bố mẹ. Ngày xưa vì nghèo khó cả gia đình chỉ có một gian nhà tất cả quây quần sớm tối. Vì thế mà cha mẹ và con cái thường xuyên tiếp xúc, chia sẻ với nhau, gần gũi nhau, thương yêu nhau. Trong gia đình xảy ra bất cứ chuyện lớn, nhỏ con cái, cha mẹ đều biết, đều chia sẻ và cảm thông.
Gia đình do cha mẹ làm chủ, cha mẹ chính là tấm gương sống, là hình tượng đầu tiên, quan trọng nhất hình thành nhân cách của giới trẻ. Nếp sống gia đình, ngày xưa gọi là gia đạo, gia phong sẽ quyết định rất lớn vào tính cách, lối sống, hành vi của con em. Một gia đình thiếu nền nếp, cha mẹ lục đục, sống thiếu tình thương, bị hơi lạnh của đồng tiền tri phối rõ ràng khó tạo lên những đứa con ngoan trò giỏi, công dân tốt cho xã hội.
– Nhà trường:
Nhà trường là môi trường giáo dục không chỉ dạy kiến thức mà còn, và quan trọng hơn hết, là dạy cách làm người. Ngày xưa có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, nhưng mấy mươi năm trước câu này đã bị gỡ bỏ ở các trường. Các trường hiện nay ít chú ý đến hành vi đạo đức của trẻ, chủ yếu là trang bị kiến thức, là nơi “giữ trẻ” trong những lúc bố mẹ chúng còn mải mê công sở, kiếm tiền.
– Xã hội:
Là nơi hoạt động của con người. Một xã hội văn minh, lành mạnh sẽ là môi trường tốt nâng đỡ và thôi thúc giới trẻ dấn thân cống hiến công sức, trí tuệ xây dựng công đồng, đất nước. Nhưng ngược lại, xã hội cũng là sông sâu, vực thẳm, mời gọi, cuốn hút trẻ vào các tệ đoan, sa ngã.
Môi trường giáo dục ấy bây giờ ra sao?
- Gia đình: Hãy tưởng tượng, như trên phần nào tôi đã đề cập, trong gia đình, bố mẹ sáng dạy mải móng nhét mấy đồng vào tay con tự lo bữa sáng (thậm chí cả bữa trưa) trong ngày. Tối về, vội vã chuẩn bị bữa ăn, vội vã và vài bát cơm sau đó ai rút về phòng người ấy. Cha mẹ và con cái hầu như rất ít giao lưu. Nhưng đó chỉ là một phần vấn đề. Hãy xem lối sống, cách hành xử của cha mẹ hàng ngày với ông bà, với anh em bạn bẹ, với đồng nghiệp và ngoài xã hội. Ngôn ngữ chợ búa tràn ngập trong không gian gia đình, gia đình là nơi chứa chấp các âm mưu và toan tính. Cha mẹ làm cơ quan nhà nước thì âm mưu mua bán chức quyền, âm mưu làm giàu từ tham nhũng, từ biếu xén, luồn lọt. Cha mẹ làm doanh nghiệp bên ngoài thì âm mưu buôn gian bán lận, lừa đảo làm giàu…
Môi trường gia đình ấy không khác mấy bãi chiến trường, sớm dạy cho người con cách sống lạnh lùng vật chất, thiếu đi một tinh thần nhân văn cần có.
– Nhà trường: Ngày xưa, cũng chưa lâu lắm, khoảng hai chục năm trước, mối quan hệ thầy trò khác xa bây giờ. Khác ở chỗ thầy và trò rất thân thiết và gần gũi nhau. Học trò ốm đau thầy cô đến tận nhà thăm hỏi, thầy cô biết rõ hoàn cảnh gia đình của mỗi đứa và thường xuyên gặp gỡ động viên học trò. Ngày xưa chúng tôi không học thêm như bây giờ. Có bồi dưỡng học sinh giỏi thì cũng hầu như không công, có chăng chút ít quà cáp gọi là của cha mẹ biếu thầy cô với một tấm lòng trân trọng. Có khi vì ốm đau phải nghỉ học, thầy cô sẵn lòng dành thời gian cả tháng kèm cặp riêng để theo được bài mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện vật chất nào.
Còn bầy gờ? Học sinh học thêm tối sáng, không chỉ học thêm môn chính mà cả các môn phụ. Học thêm không phải vì ham học, mà vì sợ thầy cô. Đành rằng chương trình giáo dục của ta hiện nay còn bất hợp lý, quá nhiều môn học, kiến thức quá nặng nên để thi được đại học cần phải học thêm. Nhưng cũng có khi thầy lên lớp chỉ dạy “nửa chữ” còn “nửa chữ” dành cho dạy ở giờ phụ đạo. Việc thúc ép học sinh đi học không phải là chuyện hãn hữu. Thúc ép có nhiều cách tinh vị và ngọt ngào.
Hơi lạnh của đồng tiền thẩm thấu vào mọi mối quan hệ tình cảm, mọi mối quan hệ vốn được coi là thiêng liêng nên cái thiêng trở nên mất thiêng, tầm thường và trần trụi. Đó còn chưa kể đến sự suy thoái của môi trường giáo dục khi nhận những thầy cô dốt (rất nhiều trường THPT, THCS hiện nay sẵn sàng nhận giáo viên học tại chức hay học đại học từ những trường mà ngôn ngữ bình dân gọi là “vớ vẩn” vào dạy hợp đồng rồi tìm cách “chạy” biên chế. Những giáo viên này phải “chi” không ít nên cũng tìm cách “thu” lại cả vốn lẫn lời bằng cách thúc ép học thêm).
– Xã hội: Xã hội của chúng ta hiện nay thế nào? Có phải là môi trường văn hoá, văn minh lý tưởng cho tuổi trẻ, môi trường để tuổi trẻ được thoả sức sáng tạo và cống hiến? Đặt câu hỏi như thế có người sẽ bật cười: còn xa chúng ta mới được như thế.
Hãy ra khỏi nhà, ra đường, đến bến tàu xe, đến chợ mà nhìn người ta sống, người ta hành xử là biết xã hội ra sao. Bản thân mối quan hệ gia đình, nhà trường cũng phản ánh phần nào xã hội. Ở đây tôi xin không nói về các mặt trái đầy dãy ngoài kia, sau màn hình vi tính này, bởi vì ai cũng thấy, ai cũng biết, nó đập vào mắt chúng ta, khiều khíc chúng ta. Tôi cũng xin không nói về lứa tuôi teen, lứa tuổi dễ dàng bị ảnh hưởng tác động của những hành vị của người lớn. Tôi chỉ xin nói về cơ hội cống hiến của giới trẻ đang độ tuổi lao động, nói như Chí Phèo: tôi muốn cống hiến nhưng ai cho tôi cống hiến.Trong con mắt của những người “có tuổi” thì nhìn chung tuổi trẻ thường đi liền với bồng bột, thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống và thiếu luôn cả lập trường, bản lĩnh, thậm chí là mất định hướng trong cuộc sống. Chính vì thế mà cũng dễ hiểu khi một trọng trách nào đó ở một cơ quan, đơn vị thường khó lòng “lọt lưới” rơi vào tay giới trẻ. Lý giải điều nay cũng không thể hoàn toàn đổ lỗi cho sự tham quyền cố vị, tư tưởng “khôn đâu đến trẻ”… mà còn xuất phát từ nguồn gốc kinh tế, truyền thống văn hoá dân tộc. Dân tộc ta vốn là cư dân nông nghiệp. Làm nông nghiệp thời xưa (và cả thời nay nữa) phụ thuộc lớn vào thời tiết “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông lắng, trông ngày, trông đêm”, vào kinh nghiệm “nước, phân, cần, giống”. Mà kinh nghiệm dĩ nhiên chỉ tuổi già mới tích luỹ được nhiều. Vì thế dẫn đến tư tưởng “trọng sỉ”, đề cao kinh nghiệm, đề cao tuổi tác. Đó còn chưa kể tới quan điểm của Nho giáo “50 tuổi biết mệnh trời”. Tư tưởng này ăn sâu rễ vào tiềm thức người Việt, cộng với tư tưởng công thần tạo nên cái nhìn nhiều khi sai lệch về tuổi trẻ trong thời buổi khoa học công nghệ đòi hỏi trí tuệ hơn tuổi tác. Chính vì thế dễ thấy tuổi trẻ ít khi được trọng dụng được mạnh dạn bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng, vì chưa đủ “tích luỹ”.
Tiện đây cũng xin lưu là những nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ lại là những người còn rất trẻ, chủ yếu là U30, U20. Đơn cử như tổng bí thư Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, hay như vị đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ quốc phòng cũng chỉ mới 36 tuổi. Đó còn chưa kể tới vô số các Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch tỉnh thời kỳ đầu của chế độ là những người rất trẻ, có người chỉ độ 20.
Tại sao lại có hiện tượng ấy? Là bởi vì tuổi trẻ đi liền với tính năng động, thích cái mới, ưa mạo hiểm, sẵn sàng thay đổi nên dễ tiếp nhận chủ thuyết mới không bảo thủ như lớp già, và khi đã tiếp nhận thì hăng hái hoạt động thực hiện hoài bão, lý tưởng.
Tuy nhiên sau khi lên cầm quyền, vì họ trẻ nên cầm quyền lâu. Khi họ già chuyển giao cho những người cộng sự kế cận thì những người đó cũng đã ở tuổi cao rồi. Tuổi trẻ sau này khó len chân vào các chức vụ quan trọng, mà để phấn đấu lên được chức vụ đó phải qua tuần tự qua vô vàn các tầng bậc chức tước khác, đến khi len lên được thì tuổi cũng đã cao. Như vậy chúng ta thấy, giới trẻ chiếm tỷ lệ cao trong dân số ở tuổi lao động, là “mùa xuân của xã hội”, “tương lai của đất nước” nhưng chưa có vai trò, tác động lớn đối với hướng đi của xã hội và đất nước.
Người xưa nói “thượng bất chính hạ tắc loạn”, dân gian cũng nói “nhà dột từ nóc”, điều đó không thể nguỵ biện cho sự hư hỏng của tôi và bạn, nhưng rõ ràng đó là một lý do, lý do quan trọng nhất.
— Thật đau xót khi nghĩ tới một xã hội cách đây chưa lâu từng được ca ngợi nghèo nhưng vẫn giữ được phẩm cách, nay đầy rẫy những cảnh xa xỉ lố lăng, gian dối, xảo trá, không chút tự trọng. Có thể xem tất cả những hiện tượng ấy đều bộc lộ những góc cạnh khác nhau của một sự thật là tình hình suy thoái đạo đức nghiêm trọng trong xã hội.
Vậy đâu là nguyên nhân của tình hình suy thoái đạo đức này? Cho đến nay đã có rất nhiều ý kiến được nêu ra để lý giải. Tất nhiên, những nguyên nhân được đưa ra có khác nhau tùy theo từng bối cảnh và vụ việc, nhưng phần lớn đều đề cập tới những ý tưởng đại loại như sau: do “mặt trái” của cơ chế thị trường, do sự sa sút của ý thức đạo đức cá nhân, do pháp luật không nghiêm, do giáo dục của gia đình và nhà trường, do tác động của văn hóa ngoại nhập, do Internet, do phim ảnh và game bạo lực, do bản tính xấu xa và ích kỷ của con người, do lối sống hưởng thụ, ăn chơi đua đòi, do cha mẹ và người lớn thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần tự giác .
-nguyên nhân làm nảy sinh tội phạm và tệ nạn xã hội là do một bộ phận giới trẻ hiện nay ảnh hưởng tiêu cực của lối sống thực dụng, hưởng thụ, ăn chơi đua đòi, đạo đức xã hội bị xuống cấp. Trong khi đó công tác quản lý, giáo dục thanh thiếu niên từ gia đình còn xem nhẹ, một số bộ phận thanh thiếu niên hư hỏng chủ yếu là do cha mẹ và những người lớn thiếu gương mẫu…”
-Tình hình suy thoái đạo đức trong xã hội Việt Nam ngày nay bắt nguồn từ hai căn nguyên sâu xa: (a) tính chất “ngoại trị” của nền đạo đức nói riêng và của đời sống văn hóa tinh thần nói chung; và (b) những sự bất ổn và trục trặc trong cả cấu hình thiết kế nhà nước lẫn trong mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự, hay nói một cách tổng quát hơn, tình trạng thiếu vắng của một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa.

Theo tôi, nền đạo đức nói riêng và đời sống tinh thần nói chung trong xã hội Việt Nam ngày nay đang có nguy cơ lâm vào tình trạng bất ổn và lệch lạc sâu xa do dòng tư tưởng thống soái trong xã hội chủ yếu đặt nền tảng trên quan điểm duy lợi và thực dụng . Chính vì luôn chỉ đề cao lợi ích lên hàng đầu (xu hướng duy lợi) và chỉ chú trọng kết quả cần đạt được (xu hướng thực dụng) chứ không quan tâm đủ tới bản thân hành động của cá nhân và động cơ của cá nhân, tức là ý chí của “chủ thể luân lý” nên mới phát sinh và lây lan mạnh mẽ những căn bệnh như bệnh thành tích, bệnh phong trào, bệnh thi đua, và hệ quả khó tránh khỏi là bệnh sống hai mặt, hay nói đó là sự đạo đức giả, không có thực chất ,chỉ có cái Thiện trên ngôn từ, chứ không có trong tinh thần.
Vì chỉ dựa trên những động lực bên ngoài (phấn đấu để đạt chỉ tiêu, thành tích, khen thưởng, bằng cấp, chức tước, đồng tiền…) hơn là những động lực thực chất bên trong, tức là các động lực tinh thần và đạo đức, nên hậu quả là điều này làm đảo lộn thang bậc giá trị, đặt nặng mục đích hơn là phương tiện, thậm chí có thể đi đến chỗ bất chấp phương tiện, miễn là đạt mục tiêu (chẳng hạn, học chỉ để thi, chỉ để lấy bằng, muốn trở thành người nổi tiếng, muốn đạt kỷ lục thế giới… hoặc đề cao lý tưởng làm giầu nơi thanh niên, trong khi thực ra đáng lý cái cần cổ xúy là tinh thần chuyên tâm học tập, óc cần cù lao động, lương tâm nghề nghiệp…). Đấy là biểu hiện của lối tư duy lấy kết quả hay hiệu quả làm mục tiêu tối hậu và làm thước đo cho giá trị và ý nghĩa của hành vi luân lý.
Trong khuôn khổ của một nền đạo đức ngoại trị, người ta thường chỉ chú ý xem người khác nhìn mình và đánh giá mình như thế nào, chứ không coi trọng ý thức của chính mình về điều mình phải làm và do vậy cũng không bận tâm đến tiếng nói lương tâm của chính mình. Hệ quả của nền đạo đức ngoại trị này là khiến cho người ta dễ rơi vào xu hướng “sống hai mặt”: nghĩa là chỉ làm điều phải làm khi có người chứng kiến, còn nếu không ai thấy, không ai biết, thì không những tự cho phép mình không làm điều phải làm mà thậm chí còn có thể làm cả điều sai trái! Lẽ tất nhiên, những cặp mắt của người khác hay “dư luận xã hội” đều là những hàng rào hữu ích và cần thiết nhằm ngăn chặn những hành vi sai trái, nhưng như vậy thôi thì chưa đủ, vì đấy chỉ là những hàng rào bên ngoài, mang tính chất “ngoại trị”. Một cộng đồng mạnh và trưởng thành là một cộng đồng bao gồm những chủ thể luân lý tự mình biết những điều “phải làm” và tự do chọn lựa cách ứng xử tuân theo những ý thức tự giác của mình mách bảo, chứ không cần ai ép buộc hoặc chiêu dụ bằng những động lực ngoại tại. Luân lý thật ra không phải là học thuyết về việc ta phải làm thế nào để cho mình được hạnh phúc, mà là làm thế nào để ta trở thành xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
( Còn tiếp )
VA

