Tác giả: Võ Hương An (Nhà nghiên cứu lịch sử)
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Lời người viết: Mùa Vu lan năm Canh dần 2010, tự nhiên tôi nhận được nhiều email của thân hữu gởi đến – có ngày nhận hai ba cái — kèm theo truyện ngắn “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, viết về sự tàn ác và hèn hạ của vua Gia Long trong việc hành hình vợ chồng Trần Quang Diệu & Bùi Thị Xuân — hai dũng tướng của Tây Sơn — và gia đình (mẹ già và con gái). Nội dung của các điện thư hoặc có ý hỏi tôi sự thật có đúng như vậy không, hoặc tỏ ra đồng ý với tác giả, chê trách vua Gia Long tàn ác. Bài viết này xin xem như một câu trả lời, sự thật lịch sử là một kinh nghiệm chung ở đời…
Đôi nét lịch sử
Sau 25 năm chiến đấu kiên trì và gian khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân, đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1) nhưng theo lời đề nghị của bầy tôi, vua ban hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại mới của nhà Nguyễn.
Vào đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này ( mồng 2 tháng Năm âm lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng quốc khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến trường có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó — vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành để thống nhất đất nước. (Võ Hương-An, Thăng Long và Gia Long )
Ngay sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I, tr.473).
Sau khi chiếm được Bắc hà, bắt được trọn gói vua tôi, anh em vua Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống nhất đất nước từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày giáp tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù binh trước bàn thờ tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn. Sau lễ,
“Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài.” (Thực lục I, tr.531)
Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu : “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu …” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân.” (Thực lục I, tr.532,533)
Theo tài liệu của Bissachère, trước khi nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em vua Cảnh Thịnh còn bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyện Nhạc) (theo hồi ký của Bissachère) trước khi hài cốt bị đem “giả nát rồi vất đi”.
Xem thêm :
Chùm ảnh: Lăng Ba Vành – nơi an nghỉ của Hoàng đế Quang Trung?
Quy mô to lớn khác thường, những yếu tố kiến trúc đặc biệt cùng sự trừng phạt thảm khốc và lãng quên trong suốt triều Nguyễn khiến nhiều người tin rằng lăng Ba Vành chính là nơi an nghỉ của Hoàng đế Quang Trung
Nơi an táng Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ là một trong những ẩn số lớn của lịch sử Việt Nam . Nhiều giả thiết đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, trong đó ý kiến cho rằng lăng Ba Vành ở Huế là lăng mộ vị hoàng đế vĩ đại triều Tây Sơn nhận được rất nhiều sự quan tâm.

Đây là một khu lăng mộ có quy mô lớn, với chiều dài khoảng 60m, rộng 40m, nằm trong khu rừng thông thuộc địa phần làng Cư Chánh, ngoại thành của Huế. Lăng gồm 3 vòng thành tròn ghép lại. Vòng ngoài cùng có tường đá cao và rất dày, hai đầu là hai trụ cửa lớn.
Vòng thành thứ hai có hai đầu cong ngược ra ngoài với phù điêu đắp nổi. Mô típ trang trí trên phù điêu không giống với bất cứ lăng mộ nào của nhà Nguyễn.
Vòng thành trong cùng ôm nấm mộ có hình mai rùa – loại mộ dành cho bậc công thần, đế vương theo quan niệm thời xưa.

Nấm mộ có vách rất dày, bị bạt góc trái theo kiểu chém “tả đao” dành cho tử tù thời phong kiến, để kéo quan tài ra khỏi mộ.
Bia đá trước mộ bị chặt gãy và vứt chỏng chơ dưới đất, những năm gần đây mới được dựng lại một cách tạm bợ.
Các dòng chữ trên bia đã bị đục phá một cách tàn bạo và không thể đọc được.
Phía trước khu lăng mộ có một hố lõm lớn, là dấu vết của hồ tân nguyệt, một yếu tố phong thủy của mộ vua chúa, hoàng thân xưa kia.
Ngoài ra, giới nghiên cứu còn khẳng định khu lăng mộ tồn tại những dấu tích của một nơi an táng bậc đế vương như nhà bia, cổng tam quan, vườn lăng…
Đặc biệt, nhà nghiên cứu Trần Viết Điền khẳng định gạch dùng để xây mộ là loại gạch Tây Sơn, sau khi đối chiếu với loại gạch ở gò Viên Khâu, đàn Phương Trạch, Học cung Long Hồ… các công trình xây cất dưới triều đại Tây Sơn.
Quy mô to lớn khác thường, những yếu tố kiến trúc đặc biệt cùng sự trừng phạt thảm khốc và lãng quên trong suốt triều Nguyễn khiến nhiều người tin rằng lăng Ba Vành chính là nơi an nghỉ của Hoàng đế Quang Trung.
Theo sử sách, Hoàng đế Quang Trung băng hà ở thành Phú Xuân (Huế) năm 1792. Triều đại Tây Sơn sụp đổ 10 năm sau đó. Sau khi làm chủ Phú Xuân, vua Gia Long đã quật phá mồ mả của kẻ tử thù năm xưa trong cuộc trả thù tàn nhẫn nhằm vào triều Tây Sơn…
