Hàn Quốc ( Phần 1 )

Việt Anh : 

 

Hàn Quốc là một đất nước của những sự tương phản rõ rệt, nơi những cung điện cũ nằm cạnh những tòa nhà chọc trời và các truyền thống dân tộc cùng tồn tại với lối sống hiện đại. Nền kinh tế năng động, phong cảnh đẹp tuyệt vời, văn hóa độc đáo và một lịch sử hấp dẫn, tất cả đã góp phần tạo nên nét quyến rũ của quốc gia Đông Bắc Á này.

Vị thế dẫn đầu toàn cầu

Khi nước cộng hòa được thành lập vào năm 1948, Hàn Quốc chủ yếu là một nước nông nghiệp và là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Ở các vùng sâu, vùng xa, dấu tích của lối sống cũ vẫn còn đó, nhưng ngày nay hầu hết người dân Hàn Quốc có một cuộc sống khác trước rất nhiều. Hiện tại, Hàn Quốc đã trở thành một thế lực kinh tế mạnh mẽ và, ngoài Nhật Bản, Hàn Quốc nước châu Á duy nhất thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), một tổ chức gồm 30 quốc gia phát triển nhất thế giới. Bằng cách tập trung vào những ngành kinh tế mũi nhọn, Hàn Quốc đã tạo lập cho mình vị thế là nước dẫn đầu thế giới về đồ điện tử tiêu dùng và công nghiệp, sản xuất xe hơi, và là nước hàng đầu thế giới về công nghiệp đóng tàu. Năm 2002, Hàn Quốc trở thành nước có giá trị xuất khẩu lớn thứ 12 trên thế giới, vượt cả các quốc gia như Nga, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Úc. Bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997, Hàn Quốc vẫn giữ được mức tăng trưởng kinh tế hàng năm ngoạn mục với mức tăng trung bình 5,2% GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) trong giai đoạn 1993-2003, gấp đôi mức tăng trưởng trung bình của các nước thuộc OECD.

  

Thành công của Hàn Quốc rõ ràng đã có tác động vượt xa khỏi biên giới quốc gia. Rất nhiều cái tên của các nhà sản xuất hàng đầu Hàn Quốc đã trở nên quen thuộc trên thế giới, như các công ty sản xuất đồ điện tử Sam sung và LG (Lucky Goldstar) hay các công ty sản xuất xe hơi Hyundai và Kia. Kết quả của sự biến chuyển kinh tế mạnh mẽ này thật không thể tin nổi. Từ một trong những nước nghèo nhất thế giới, người Hàn Quốc giờ đây đã có mức sống tương đương với mức sống của người dân nhiều nước ở châu Âu và Bắc Mỹ. Năm 2003, thu nhập bình quân đầu người ở Hàn Quốc bằng 78% mức thu nhập bình quân đầu người của các nước châu Âu và các nước OECD, cao hơn cả thu nhập bình quân của Hy Lạp và Bồ Đào Nha.

Sự chuyển biến này đặc biệt rõ rệt ở các thành phố. Buổi tối, các đường phố đầy âm thanh náo nhiệt của những người đi chơi phố. Các dãy cửa hàng nhộn nhịp người mua, bán. Các rạp chiếu phim và nhà hát chật người xem. Thực tế, nếu thoạt nhìn, hầu như không có sự khác biệt nhiều giữa các thành phố lớn của Hàn Quốc như Seoul, Busan và Ulsan với bất kì thành phố lớn nào ở các nước phát triển.

  

Các vương quốc và các cuộc chinh phục

Trong phần lớn quá khứ, Hàn Quốc có chung lịch sử với Bắc Triều Tiên, thế nhưng Triều Tiên vẫn thường xuyên bị chia thành nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ riêng biệt. Từng thời kì, các nước này được một thế lực bá quyền thống nhất trước khi lại bị tan rã lần nữa. Do đó, lịch sử của Triều Tiên rất phức tạp, nhưng vẫn có thể chỉ ra vài thời kỳ quan trọng để lại ảnh hưởng lâu dài về sau.

Trong thời kỳ Ba vương quốc, từ nhiều quốc gia thị tộc chỉ còn lại ba vương quốc thù địch, đó là Vương quốc Koguryo (thành lập năm 37 TCN), Vương quốc Paekche (năm 18 TCN) và Vương quốc Silla (năm 57 TCN). Vào năm 668 sau công nguyên, với sự hỗ trợ của người Trung Quốc, Vương quốc Silla thống nhất toàn bộ Triều Tiên. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, Silla một lần nữa bị chia thành ba nước nhỏ. Năm 936, ba nước này thống nhất thành Vương quốc Koryo, mà từ cái tên của vương quốc này phát sinh chữ Korea, tức Triều Tiên. Vương quốc Koryo tồn tại cho tới năm 1392, khi những cuộc cải cách ruộng đất đánh dấu sự ra đời của triều đại mới Choson do 26 đời vua cai trị đến năm 1910. Trong suốt giai đoạn này, Triều Tiên phải đối mặt với các cuộc xâm lược của Nhật Bản và Trung Quốc nhưng vẫn đứng vững cho tới năm 1910, là năm Nhật Bản rốt cuộc cũng đã thôn tính được Triều Tiên. Chính sách cai trị của Nhật Bản hết sức hà khắc, mọi sự phản kháng đều bị đàn áp và hàng loạt các thay đổi có ảnh hưởng sâu rộng đã được thực hiện nhằm buộc người Triều Tiên phải sống theo lối sống Nhật Bản.

  

  Cư dân Silla đã lập các thủ phủ địa phương và xây dựng những cung điện to lớn ở thủ đô Silla (Kyongju ngày nay) nhiều công trình trong số đó vẫn còn tồn tại cho tới bây giờ, như đền Pulguk tráng lệ.


Một đất nước bị chia cắt

Ách cai trị của Nhật Bản ở Triều Tiên kết thúc cùng với thất bại của Nhật Bản trong Đại chiến Thế giới II năm 1945. Triều Tiên tạm thời là vùng ủy trị quốc tế: quân đội Mỹ kiểm soát miền Nam trong khi quân đội Liên Xô kiểm soát miền Bắc. Hai chính phủ đối lập xuất hiện. Đất nước bị chia cắt thành hai miền và đi theo những hệ tư tưởng chính trị trái ngược nhau, không bên nào thừa nhận bên nào. Nước Cộng hòa Triều Tiên được thành lập vào tháng Năm 1948 và được các nước phương Tây và Liên hợp quốc ủng hộ. Ở miền Bắc Triều Tiên, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên được thành lập tháng Chín 1948 với sự hỗ trợ của Liên Xô. Năm 1950 nổ ra cuộc chiến tranh Triều Tiên, kéo dài ba năm và trở thành một trong những xung đột chính của Chiến tranh lạnh. Khoảng bốn triệu người Triều Tiên đã thiệt mạng trong cuộc chiến tranh này và đất nước vẫn tiếp tục bị chia thành hai nửa theo ranh giới ngừng bắn được xác định năm 1953. Ngày nay, đã có những hy vọng mới về một Triều Tiên thống nhất, nhưng giữa hai nước vẫn còn nhiều căng thẳng về quân sự.

  

Thay đổi về chính trị

Ngày nay Hàn Quốc là một nước có nền dân chủ dân sự ổn định, nhưng từ năm 1961 tới năm 1988, thực tế đất nước lại nằm dưới sự cai trị của chế độ quân sự, mặc dù vẫn còn là một yếu tố của chính quyền dân sự. Tướng Park Chung Hee (sau này lên làm tổng thống) là người lãnh đạo chính trong suốt thời kỳ chế độ quân sự. Ông đã khởi xướng cuộc cải cách kinh tế của Hàn Quốc, nhưng với một cái giá nhất định. Các quyền tự do cá nhân bị bóp nghẹt, báo chí và các phe đối lập chính trị bị đàn áp. Năm 1972, Park Chung Hee đã sửa đổi hiến pháp và tự trao cho mình quyền lực tuyệt đối. Việc này làm nổ ra những cuộc biểu tình chính trị. Các cuộc biểu tình này bị đàn áp dã man, hàng trăm dân thường chết hoặc bị thương. Park Chung Hee đã bị ám sát vào tháng mười năm 1979 do chính người đứng đầu cơ quan tình báo của mình. Những lời kêu gọi quay trở lại một nền dân chủ toàn diện đã dẫn đến việc sửa đổi hiến pháp vào năm 1980 và sự đắc cử của tổng thống Chun Doo Hwan vào năm 1981. Việc khôi phục hoàn toàn chính phủ dân sự diễn ra năm 1987, khi hiến pháp mới được thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý trên cả nước. Chính phủ dân sự vẫn tồn tại tới ngày nay, với tổng thống được bầu thông qua bầu cử toàn dân, nhiệm kỳ 5 năm.

  

Dân cư và các biến động 

Từ khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, dân số Hàn Quốc tăng nhanh chóng. Năm 2004, Hàn Quốc là nước đông dân thứ 24 trên thế giới. Cơ cấu dân số Hàn Quốc cũng thay đổi. Ngày càng có nhiều người sống ở khu vực thành thị và dân số đang ngày một già đi bởi con người có tuổi thọ cao hơn còn tỉ lệ sinh thì giảm xuống.

Bùng nổ dân số

Khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950, Hàn Quốc có khoảng 18,9 triệu dân hơn l triệu người trong số đó dân chết trong cuộc chiến (không tính được con số chính xác). Trong thời kỳ hậu chiến, tốc độ tăng dân số rất cao, đó là do tỷ lệ sinh tăng và tỷ lệ tử vong giảm nhờ các tiến bộ y học, chẳng hạn như thuốc kháng sinh. Từ năm 1955 đến 1960, dân số tăng hơn 3% mỗi năm, tạo nên sự bùng nổ trẻ sơ sinh. Năm 1960, dân số Hàn Quốc đã lên tới 25 triệu người, còn nhiều hơn cả số dân trên toàn bộ bán đảo Triều Tiên trước khi bị chia cắt.

Nhận thức được sức ép trong tương lai về điều kiện sống và sản xuất lương thực, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra các chính sách tích cực về kế hoạch hóa gia đình vào đầu những năm 1960. Cũng trong giai đoạn đó, Hàn Quốc đạt mức tăng trưởng kinh tế nhanh và thực hiện hiện đại hóa. Điều này dẫn tới hiện tượng kết hôn muộn hơn và sự giảm tự nhiên số người trong các gia đình. Sự thay đổi xã hội này được tạo ra bởi tiêu chí văn hóa mới, theo đó mọi người đã chấp nhận rằng “càng có ít con, cuộc sống càng sung túc”. Năm 1970 tỷ lệ tăng dân số giảm xuống 2% và xuống chỉ còn khoảng 1,5% trong suốt những năm 1980. Tuy nhiên, tới năm 1990, dân số Hàn Quốc đã đạt tới 43 triệu người và cho dù tỷ lệ tăng dân số giảm xuống còn chưa đầy 1% một năm, dân số Hàn Quốc cũng đã lên đến con số 48 triệu người vào năm 2004. Dân số Hàn Quốc hiện đang bước vào một thời kỳ ổn định và trong các thập niên tới nếu có tăng cũng sẽ chỉ tăng chậm. Các dự đoán khác nhau cho thấy dân số Hàn Quốc sẽ ở trong khoảng 46,4 triệu tới 51,3 triệu người vào năm 2050. Việc thống nhất với CHDCND Triều Tiên rất có thể sẽ ảnh hưởng đến giai đoạn ổn định này bởi người dân CHDCND Triều Tiên sẽ di cư xuống phía nam để hưởng mức sống cao hơn ở Hàn Quốc ngày nay.

  

Mật độ dân cư

Do diện tích nhỏ, trong khi dân số lớn, Hàn Quốc là một trong những nước có mật độ dân cư trung bình cao nhất thế giới, với 481 người trên một kilômét vuông (km2). Vùng núi phía bắc và phía đông thưa dân hơn nhiều, thường chưa đầy 50 người/km2. Ngược lại, các trung tâm đô thị lớn có mật độ dân số cao hơn nhiều so với mật độ trung bình cả nước. Chẳng hạn, theo số liệu thống kê năm 2000, Busan có tới 4.800 người/km2. Một đặc điểm trong phân bố dân cư ở Hàn Quốc là mật độ dân số quá cao ở thủ đô Seoul. Thống kê dân số năm 2000 cho thấy gần 22% dân Hàn Quốc sống ở Seoul, khiến mật độ dân số ở đây lên tới trên 16.300 người/km2, thuộc hàng cao nhất trên thế giới.

Đô thị hoá 

Hàn Quốc là một trong những nước có mức độ đô thị hóa lớn nhất ở châu Á với 80% số dân sống trong các khu đô thị vào năm 2003, so với 65% ở Nhật Bản và chỉ 39% ở Trung Quốc. Quá trình đô thị hóa của Hàn Quốc đã diễn ra rất nhanh chóng. Năm 1950, chỉ có 21% dân số sống ở các đô thị nhưng đến năm 1975, con số này tăng hơn hai lần, lên tới 48%. Quá trình này diễn ra đặc biệt nhanh vào những năm 1960. Hàng loạt kế hoạch kinh tế 5 năm (bắt đầu từ năm 1962) đã gia tăng nhanh chóng quá trình công nghiệp hóa và tạo ra hàng nghìn việc làm mới. Cùng thời gian này, dân số tăng cũng làm tăng sức ép về đất nông nghiệp, do đó nhiều người phải chọn giải pháp chuyển lên sống ở các thành phố. Trong những năm 70, dân di cư từ nông thôn lên thành thị chiếm tới 55% tỷ lệ tăng dân số ở các khu đô thị.

Trong các thập niên 60 và 70, Seoul và Busan là hai thành phố phải chịu nhiều sức ép nhất của đô thị hóa. Trong giai đoạn 1960-1980, tỷ lệ tăng dân số của hai thành phố này là 350% và 270%. Tốc độ tăng này chậm lại vào những năm 1980 và từ những năm 1990, dân số đã giảm ở cả Seoul và Busan. Sự suy giảm này có thể được giải thích do sự phát triển của các thị trấn và thành phố vệ tinh. Các thị trấn và thành phố này phát triển là do đất ở các thành phố chính trở nên chật chội và giá nhà ở cao đã khiến dân nhập cư không thể sống ở đó được. Tại các thị trấn và thành phố vệ tinh này, chỗ ở rẻ hơn và chúng được nối với các thành phố lớn bằng đường sắt và xe buýt. Chẳng hạn, Inchon và Suwon đã trở thành những thành phố vệ tinh quan trọng của Seoul và có số dân tăng gấp đôi kể từ năm 1985.

Tái phân bố dân cư

Từ cuối những năm 1980, người dân Seoul dần dần rời khỏi thành phố, tuy nhiên hầu như họ chỉ chuyển sang các khu vực xung quanh. Kết quả, dân số Hàn Quốc vẫn trong tình trạng cực kỳ mất cân đối với gần nửa số dân sống ở thủ đô Seoul. Khu vực này ngày nay đã được mở rộng ra khoảng 40-50 km tính từ trung tâm Seoul. Từ cuối thập niên 70, chính phủ đã cố gắng khuyến khích quá trình đưa dân cư ra khỏi khu vực Seoul, nhưng nói chung đã không thành công lắm. Một số khu liên hợp công nghiệp mới, ví dụ các nhà máy sản xuất thép ở Pohang hay các nhà máy hóa chất ở Ulsan đã thành công trong việc thu hút khá nhiều người dân chuyển tới vùng đông nam Hàn Quốc. Thành phố cảng công nghiệp Busan cũng nằm ở vùng này. Khoảng 30% dân số Hàn Quốc hiện sống ở khu đô thị phía đông nam. Khu đô thị bao quanh Seoul vẫn đang tiếp tục phát triển, tuy nhiên, chính phủ cần phải hành động nhiều hơn nếu muốn thu hút người dân đến định cư ở các thủ phủ các tỉnh khác.

Thành phố New Songdo

Khoảng 64 kilômét về phía Nam Seoul là một thành phố công nghiệp công nghệ cao mới, với diện tích trên 600 hécta đất lấn được của biển Hoàng Hải. Đến khoảng năm 2015, ở Songdo sẽ có các công ty quốc tế lớn, một trung tâm hội nghị, cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu giải trí, bán lẻ và nhà ở cho khoảng 200.000 người. Do gần với sân bay quốc tế Incheon (cửa ngõ chính tới Hàn Quốc) và hệ thống cơ sở vật chất cảng biển đã được nâng cấp, Songdo sẽ trở thành một trung tâm đô thị mới trong thế kỷ 21.

  

Một xã hội đang già đi

Năm 1960, chỉ có 3% dân số Hàn Quốc trên 65 tuổi và tuổi thọ trung bình vào khoảng 56 đối với nữ và 53 đối với nam. Ngày nay, điều kiện sống được cải thiện cùng các tiến bộ trong y học giúp tuổi thọ kéo dài tới 78 đối với nữ và 71đối với nam. Năm 2003, tỉ lệ dân số trên 65 tuổi đạt 8%. Trên thực tế, điều này cho thấy mức dân số già (dân số trên 65 tuổi) đang tăng lên từ 0,75 triệu người vào năm 1960 lên 3,83 triệu vào năm 2003. Xu hướng hiện tại cho thấy xã hội Hàn Quốc sẽ già đi với tốc độ còn nhanh hơn trong những thập niên tới, với số dân trên 65 tuổi chiếm 14% vào năm 2019 và 20% vào năm 2026. Tỷ lệ này tương ứng với khoảng 10 triệu dân.

Theo truyền thống xã hội Hàn Quốc, người cao tuổi được con cái chăm sóc. Cha mẹ dành các khoản tiền kiếm được hay dành dụm được giúp con cái tạo lập cuộc sống và, ngược lại, họ cũng mong muốn mình sẽ được con cái chăm sóc về sau này. Mô hình này đang thay đổi trước sức ép của cuộc sống hiện đại, do chi phí sinh hoạt cao và tuổi thọ lớn hơn. Chẳng hạn có khoảng 45% người dân Hàn Quốc hiện đang sống xa nhà, điều này khiến họ gặp khó khăn hơn trong việc chăm sóc cha mẹ mình khi họ về già. Các bậc cha mẹ cũng vậy, họ chủ động quyết định sống độc lập với con cái và lựa chọn sống trong những nơi được gọi là “Thị trấn bạc” khi về hưu. Để có tiền cho sự thay đổi trong cách sống này, các bậc cha mẹ giờ đây tiết kiệm tiền ngay khi họ còn đang làm việc, trong khi trước đây họ dành hết số tiền kiếm được cho con cái. Tuy nhiên rất nhiều người cao tuổi, đặc biệt là những người ở vùng nông thôn, đều không có đủ tiền trang trải cho cuộc sống. Con cái họ phải chịu gánh nặng giá sinh hoạt phí cao hơn (Seoul là thành phố đắt đỏ thứ bảy trên toàn thế giới) và có rất nhiều người gặp khó khăn trong việc chu cấp cho cha mẹ mình khi họ về già.

Một kế hoạch trợ cấp quốc gia đã được lập ra để hỗ trợ các công nhân khi họ nghỉ hưu, nhưng nó vẫn chưa được hoàn thiện. Kết quả là người dân vẫn tiếp tục làm việc khi đã gần 70 tuổi (lâu hơn người dân ở một số quốc gia phát triển khác) để kiếm sống. Các chuyên gia y tế cho rằng, chính phủ Hàn Quốc không thể tiếp tục dựa vào sự hỗ trợ từ phía gia đình như truyền thống nữa và cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho thực tế dân số đang ngày một già đi của mình. Một hậu quả khác của việc dân số Hàn Quốc đang già đi là sự thiếu hụt số dân trong độ tuổi lao dộng (15 đến 64 tuổi) mà lao động của họ giúp nuôi sống toàn bộ xã hội. Hàn Quốc sẽ phải khuyến khích người nước ngoài nhập cư để thế chỗ cho lực lượng lao động đang giảm dần hoặc khuyến khích người dân về hưu muộn hơn.

  

Quốc gia đơn văn hóa

Hàn Quốc là một trong những dân tộc thuần nhất hàng đầu trên thế giới với hơn 99% dân số là người gốc Triều Tiên vào năm 2003. Người Triều Tiên thuộc chủng tộc Mongoloid (bao gồm cả người Trung Hoa, tổng cộng chiếm tới 70% số dân toàn cầu). Điều này cho thấy họ có nhiều điểm chung với các nhóm tộc khác, đặc biệt là những nhóm tộc ở Trung Quốc (nhất là nhóm tộc Mãn Châu), Nhật Bản và Mông Cổ. Người Triều Tiên đã có mối giao tiếp lịch sử với các nhóm tộc này thông qua thương mại và chiến tranh. Chẳng hạn, sự giao tiếp với Trung Quốc đã dẫn tới việc hơn một nửa số từ trong tiếng Triều Tiên hiện nay có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc.

Mặc dù văn hóa Hàn Quốc khá đồng nhất, nhưng nếu coi Hàn Quốc là một quốc gia đơn văn hóa thì cũng không chính xác. Chắc chắn rằng, Hàn Quốc là một quốc gia giàu bản sắc văn hóa và văn hóa đó vẫn tiếp tục được bảo tồn, nhưng dù sao nó đã và đang chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa bên ngoài. Trong lịch sử, những ảnh hưởng này chủ yếu là từ Trung Quốc, Mông Cổ và Nhật Bản và được thể hiện qua ngôn ngữ, kiến trúc và nghệ thuật. Trong nửa sau của thế kỷ 20 ảnh hưởng của phương Tây ở Hàn Quốc ngày càng lớn, một phần là do quan hệ thương mại gia tăng, nhưng đặc biệt hơn là do sự hiện diện của quân đội Mỹ ở bán đảo này từ năm 1945. Chẳng hạn bowling 10 pin và bóng chày đã trở thành những trò chơi rất phổ biến và vô số từ của tiếng Anh Mỹ đã trở thành một phần trong ngôn ngữ đời thườn

Người nước ngoài

Số người nước ngoài sống ở Hàn Quốc tăng nhanh trong những năm gần đây do ảnh hưởng của quan hệ thương mại ngày càng chặt chẽ với các nước khác và do sức hút ngày càng tăng của Hàn Quốc như một địa điểm sống lý tưởng. Năm 1992, chỉ có 65.673 người nước ngoài là kiều dân đăng ký sống ở Hàn Quốc, nhưng đến đầu năm 2004, con số này đã lên tới 437.014 người. Số người nước ngoài này chiếm chưa tới 1% dân số Hàn Quốc, nhưng nó biểu lộ một xu hướng quan trọng về một xã hội đa văn hóa hơn trong tương lai.

Những nhóm người nước ngoài quan trọng nhất ở Hàn Quốc gồm quân đội Mỹ, người Trung Quốc và số người Nga đang tăng lên. Năm 2004, số quân Mỹ hiện diện ở Hàn Quốc vẫn giống như khi kết thúc cuộc chiến tranh Triều Tiên, khoảng 37.000 người. Con số này sẽ giảm xuống trong những năm tới khi việc kiểm soát khu phi quân sự giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên được trả lại cho Hàn Quốc. Con số chính thức về người Trung Quốc ở Hàn Quốc khoảng 20.000 người, nhưng người ta ước tính còn có hàng chục nghìn người Trung Quốc nữa (thậm chí khoảng 80.000 người) lao động trái phép ở Hàn Quốc bằng giấy tờ giả. Người Trung Quốc định cư ở nhiều nơi, đặc biệt là các thành phố cảng như Inchon và Busan, đó cũng là những nơi có các khu người Hoa nổi tiếng. Seoul và Busan cũng có những khu vực gọi là các “Nước Nga nhỏ” bởi chúng thu hút một số lớn người Nga với con số chính thức khoảng 10.000 người. Tuy nhiên ở “nước Nga nhỏ” tại Seoul, con số thực tế ước tính là khoảng 50.000 người bao gồm người Nga, Ukraina và người của những nước thuộc Liên Xô cũ.

Người Triều Tiên ở nước ngoài

Biến động và sự chia rẽ trong thế kỷ 20 khiến nhiều người gốc Triều Tiên đã chuyển ra nước ngoài sinh sống trong quá khứ gần đây. Ước tính có khoảng 1 triệu người Triều Tiên hiện sống ở Mỹ và Canada, 1 triệu người ở Nga, 2 triệu ở Trung Quốc và khoảng 800.000 người ở Nhật Bản, ngoài ra còn có một số ít sống ở Nam Mỹ và Châu Âu.

 

 

Kinh tế 

Hàn Quốc đã trải qua công cuộc đổi mới kinh tế thần kỳ nhất trên thế giới trong 50 năm qua, chuyển từ một nước nông nghiệp dựa vào trồng trọt và đánh bắt thủy sản sang một nền kinh tế chuyên sâu vào những ngành công nghiệp nặng và sản xuất hàng công nghệ cao. Giờ đây, Hàn Quốc phải củng cố vị thế của mình đồng thời hướng tới hội nhập khu vực cũng như hội nhập toàn cầu nếu muốn duy trì sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ của mình.

Đi lên từ một nước nông nghiệp

Không như nhiều nước có diện tích tương đương, Hàn Quốc không có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Thực tế, ngoài các mỏ than, đá vôi ở dãy Tabaek và những mỏ chứa ít các loại khoáng sản khác (bao gồm vônfram, vàng, bạc, môlipden, kẽm, đồng và chì), Hàn Quốc có rất ít khoáng sản. Trong lịch sử Hàn Quốc, đất và nước là nền móng của nền kinh tế, một nền kinh tế bắt nguồn từ trồng trọt và đánh bắt thủy sản. Năm 1970, 50% lực lượng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp (trồng trọt và đánh bắt cá) và đóng góp 27% thu nhập quốc gia. Đến năm 2001, con số này giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 10% lực lượng lao động và chiếm 4% thu nhập quốc gia. Mặc dù giảm sút, nông nghiệp vẫn là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế với trị giá khoảng 37 tỷ đôla Mỹ năm 2002

  

Trồng trọt

Cho tới nay, lúa và loại cây trồng quan trọng nhất ở Hàn Quốc (năm 2004, Hàn Quốc là nước đứng thứ 12 trên thế giới về sản xuất lúa gạo với tổng sản lượng 6.351.000 tấn). Cơm là thức ăn chính trong bữa ăn hàng ngày chiếm 30% khẩu phần ăn của người Hàn Quốc năm 2002. Những nông sản quan trọng khác bao gồm rất nhiều loại rau và thịt lợn. Bột mì, lúa mạch, các loại đậu (đặc biệt là đậu nành), các loại cây họ đậu và các loại quả cũng được trồng. Phần lớn nông sản được tiêu thụ ngay trong nước, nhưng cũng có một lượng nhỏ các loại cây trồng giá trị cao như quýt, hạt dẻ và nhân sâm được xuất khẩu. Cho dù tự cung cấp được gạo và một số loại rau, song do dân số tăng nên Hàn Quốc phải nhập khẩu ngày càng nhiều lương thực. Thực tế, cuối những năm 1990, 75% nhu cầu lương thực của Hàn Quốc được nhập khẩu. Ngành trồng trọt của Hàn Quốc sẽ phải đối mặt với một tương lai khó khăn do thiếu đất để mở rộng sản xuất và thiếu lao động ở các vùng nông thôn. Sản phẩm nông nghiệp trong nước cũng phải cạnh tranh với hàng nông sản giá rẻ nhập từ các nước như Trung Quốc

  

Nhân sâm

Nhân sâm là một loại củ mà người ta cho rằng có nhiều đặc tính tốt cho sức khỏe, như bổ dưỡng sinh lực, tăng cường khả năng sinh sản và kéo dài tuổi thọ. Ở Hàn Quốc, nhân sâm được gọi là Insam, nghĩa là “rễ cây hình người” vì nó có hình thù giống người. Nhân sâm Hàn Quốc được coi là loại sâm tốt nhất tiên thế giới. Nhân sâm trắng (Bạch sâm) là loại phổ biến nhất và được thu hoạch khoảng 4 năm sau khi trồng. Nhân sâm đỏ (Hồng sâm) có giá trị cao hơn và được thu hoạch sau 6 đến 7 năm. Do giá trị bổ dưỡng và do chúng mất nhiều thời gian để phát triển nhân sâm là một loại hàng có giá trị ở Hàn Quốc. Chính phủ thậm chí còn hạn chế lượng nhân sâm được phép mang khỏi Hàn Quốc. Nhân sâm rừng thỉnh thoảng mới được phát hiện và được bán với giá hàng nghìn đôla.


Ngành thủy sản

Ngành thủy sản đóng góp trực tiếp chưa tới 1% thu nhập quốc gia nhưng tầm quan trọng của nó vượt xa con số này. Ngành thủy sản gián tiếp thúc đẩy những ngành khác, chẳng hạn ngành đóng và sửa chữa tàu, điện tử hàng hải, sản xuất lưới và thiết bị tàu thủy, dịch vụ vận tải và marketing. Đây cũng là ngành cung cấp nguồn thực phẩm quan trọng cho người dân, giúp đảm bảo an ninh lương thực và giảm nhu cầu nhập khẩu.

Năm 2002, Hàn Quốc là nước đứng thú mười ba trên thế giới về đánh bắt cá ngoài khơi, với sản lượng 1.663.289 tấn, chiếm khoảng 2% tổng sản lượng thế giới. Ngành đánh cá nội thủy khiêm tốn hơn rất nhiều, nhưng ngành nuôi trồng thủy sản (nuôi cá thay vì đánh bắt cá trong tự nhiên) lại rất đáng kể. Năm 2002, ngành nuôi trồng thủy sản của Hàn Quốc đứng thứ 6 trên thế giới. Hơn 50 loài cá, 15 loại giáp xác và rất nhiều loài tảo biển được nuôi trồng trong các trại cá biển. Toàn ngành thủy sản sử dụng 250.000 nhân công, khoảng 114 trong đó thuộc khu vực nuôi trồng thủy sản. Từ năm 1982, chính phủ bắt đầu đổi mới ngành thủy sản nhằm tạo ra sự phát triển bền vững trong tương lai. Hạn ngạch bến bãi (các hạn chế) được đưa ra năm 1987 nhằm bảo vệ các loài thủy hải sản và, từ năm 1994, chính phủ bắt đầu mua lại các thuyền cũ, gây hại cho môi trường, nhằm giảm bớt số thuyền cũ và hiện đại hóa các đội tàu đánh cá. Năm 2002, đội tàu đánh cá của Hàn Quốc còn chưa tới 95.000 tàu.

Công nghiệp hóa sớm

Trước thế kỷ 20, công nghiệp của Hàn Quốc chỉ giới hạn ở những ngành thủ công quy mô nhỏ ở nông thôn sản xuất ra hàng hóa phục vụ tầng lớp giàu có. Trong suốt thời gian bị Nhật Bản chiếm đóng, công nghiệp được phát triển nhằm tận dụng nguồn khoáng sản của bán đảo này, nhưng hơn 90% khoáng sản nằm ở Bắc Triều Tiên. Vào thời điểm nước Hàn Quốc được thành lập, năm 1948, hạ tầng công nghiệp có rất ít và hầu hết số này cũng bị phá hủy trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 53). Ngay sau chiến tranh, các ngành sản xuất nhỏ đã được thiết lập ở Hàn Quốc nhằm cung cấp đồ may mặc, giày dép, đồ gia dụng và hàng hóa thay thế cho hàng nhập khẩu. Những ngành công nghiệp lớn, gồm sản xuất xi măng, năng lượng, chất dẻo và lọc dầu cũng được phát triển để đáp ứng nhu cầu tăng nhanh về năng lượng và xây dựng. Tuy nhiên, chính kế hoạch 5 năm lần đầu tiên, bắt đầu vào năm 1962, mới thực sự mở đầu quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc.

Công nghiệp hóa hướng tới xuất khẩu

Do hầu như không có tài nguyên thiên nhiên trong khi thị trường nội địa nhỏ, sức mua kém, chính phủ Hàn Quốc xúc tiến một chính sách công nghiệp hóa hướng tới xuất khẩu như là một biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa là tận dụng nguồn lao động rẻ và dồi dào của Hàn Quốc cũng như các tuyến đường biển thuận lợi để sản xuất hàng cho các thị trường xuất khẩu. Thoạt đầu, chiến lược này đạt kết quả tốt và sản lượng công nghiệp tăng 17% hàng năm trong những năm 1960. Xuất khẩu, chủ yếu là hàng hóa được chế tạo, tăng còn nhanh hơn, với khoảng 36% mỗi năm trong giai đoạn 1962 đến 1972. Tuy nhiên, đầu thập niên 70, giá nhân công tăng và sản xuất được cơ khí hóa mạnh. Việc dựa vào xuất khẩu sản phẩm từ những ngành sử dụng nhiều lao động nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dường như không còn phù hợp. Kết quả là, chính phủ chuyển trọng tâm sang các ngành công nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng đòi hỏi vốn.

  

Ngành hóa chất và công nghiệp nặng

Hàn Quốc xây dựng ngành hóa chất và côn nghiệp nặng dựa trên nhập khẩu nguyên liệu thô, sử dụng lực lượng lao động lành nghề của mình và nhanh chóng phát triển kỹ năng kỹ thuật và công nghệ. Cuối những năm 1970 ngành hóa chất và công nghiệp nặng đã sản xuất khoảng một nửa lượng hàng xuất khẩu của Hàn Quốc. Những ngành chủ chốt trong khu vực này là hóa dầu, thép, đóng tàu, ô tô và đồ gia dụng

Ngành hóa chất và công nghiệp nặng hiện vẫn đang là nhân tố quan trọng đối với nền kinh tế Hàn Quốc và rất nhiều công ty trong lĩnh vực này như Hyundai, Daewoo, Kia và Samsung đã trở thành những thương hiệu quen thuộc trên khắp thế giới. Dù được thành lập ở Hàn Quốc, một vài công ty trong số này giờ đang hướng ra bên ngoài nhằm mở rộng quy mô, Chẳng hạn như năm 2004, nhà sản xuất xe hơi Kia đã đồng ý đầu tư vào một nhà máy sản xuất mới ở Slovakia có thể đạt tới sản lượng 390.000 chiếc một năm.

Ngành đóng tàu

Một trong những thành công kinh tế lớn nhất của Hàn Quốc thuộc về ngành đóng tàu. Từ vị trí gần như là số không vào đầu thập niên 70, Hàn Quốc đã soán ngôi đầu bảng của Nhật Bản vào năm 2004 và trở thành nước dẫn đầu thế giới về đóng tàu. Trong tổng số đơn đặt hàng đóng tàu của thế giới năm 2004, Hàn Quốc chiếm 40% so với 25% của Nhật Bản và 14% của Trung Quốc. Đặc biệt, Hàn Quốc đã giành được thị trường về tàu chuyên dụng như tàu chở khí hóa lỏng. Ba công ty lớn của Hàn Quốc đã nhận được gần 90% đơn đặt hàng về tàu chở khí hóa lỏng vào năm 2004. Bên kia biển Hoàng Hải ngành đóng tàu của Trung Quốc cũng đang phát triển nhanh và đe dọa vị thế đứng đầu của Hàn Quốc. Để đối phó, các công ty Hàn Quốc đang phát triển các mẫu thiết kế tàu mới một dự án trong số đó là thiết kế một chiếc tàu siêu trọng tải có thể chở tới 10.000 côngtennơ hàng rời. Khi được hoàn thành, con tàu này có thể vận chuyển được khoảng 30 triệu đôi giầy thể thao!


Cải tổ cơ cấu

Đầu những năm 1980, Hàn Quốc nổi lên như là một trong những nước công nghiệp mới (NICs) hàng dầu ở châu Á. Các nước NICs ở châu Á (gồm Singapore, Hồng Kông và Đài Loan) được gọi là “những con hổ châu Á” nhờ sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ của họ, nhưng tới thập niên 80, vị trí của các nơi này bị những nền kinh tế mới nổi lên khác thách thức. Để duy trì tốc độ tăng trưởng, Hàn Quốc thực hiện một loạt cải cách cơ cấu nền kinh tế. Những cải cách này được đề ra để thúc đẩy ngoại thương, nhưng chúng cũng mở cửa thị trường trong nước cho hàng hóa từ nước ngoài và đe dọa vị thế của các nhà sản xuất trong nước. Để đối phó với tình hình này, nền kinh tế Hàn Quốc đã cố gắng tăng tính hiệu quả để hàng hóa của mình cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Chính phủ cũng thừa nhận nhu cầu khuyến khích đầu tư cho công nghệ trong công nghiệp do thế giới đang nhanh chóng tiến tới thời dại máy tính và mức độ tự động hóa ngày càng tăng. Những thay đổi này lại làm nền kinh tế biến đổi và đến giữa những năm 1980, Hàn Quốc đã nổi lên như một trong những nền kinh tế công nghệ cao hàng đầu thế giới.

  

Nền kinh tế công nghệ cao

Ngành công nghệ cao của Hàn Quốc tập trung vào hàng điện tử dân dụng, máy tính, thiết bị viễn thông và đồ điện (như chất bán dẫn). Cùng với các ngành công nghiệp nặng, một số công ty công nghệ cao của Hàn Quốc đã trở thành những thương hiệu hàng đầu thế giới như Samsung và LG (Lucky Goldstar). Samsung đặc biệt thành công trong lĩnh vực điện thoại di động. Năm 2004, công ty bán được 86,5 triệu chiếc điện thoại (doanh số tăng 55% so với năm 2003), chiếm 13,7% tổng số điện thoại bán được trên thế giới. Ngành bán dẫn và các ngành khác của Samsung cũng tăng doanh số khiến công ty này đạt lợi nhuận tới trên 10 tỷ USD năm 2004.

Thành công trong lĩnh vực công nghệ cao của Hàn Quốc đã thu hút các công ty nước ngoài đặt trụ sở hoặc nhập các linh kiện từ Hàn Quốc nhằm tận dụng ưu điểm lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, các công ty Hewlett Packard và Motorola của Mỹ đều mua những con chíp của Samsung. Những công ty khác như IBM và Microsoft, Sony và Phillips cũng đều có mối quan hệ chặt chẽ với  các công ty công nghệ cao của Hàn Quốc. Một nhóm 13 trường đại học Đức thậm chí còn thành lập Viện Công Nghệ Đức Hàn (KGIT) ở Seoul. Khi được hoàn thành vào năm 2008, KGIT sẽ cho phép hai nền kinh tế công nghệ cao này chia sẻ các nghiên cứu và phát triển trong những lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ nanô và công nghệ sinh học

LG Electronics

LG Electronics là một trong những công ty sản xuất đồ điện tử hàng đầu thế giới với khoảng 64.000 nhân viên trên 76 nước. Công ty này dẫn đầu thị trường thế giới đối với nhiều loại sản phẩm điện tử bao gồm máy điều hòa không khí, các thiết bị lưu trữ hình ảnh (máy ghi CD và DVD), đầu xem DVD, lò vi sóng và máy hút bụi. LG cũng là một trong năm nhà sản xuất hàng đầu về màn hình, màn hình kỹ thuật số và điện thoại di động. LG tự đề ra mục tiêu trở thành một trong ba công ty sản xuất đồ điện tử hàng đầu thế giới vào năm 2010, đạt doanh số tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn 1998 đến 2003 (chủ yếu nhờ doanh số xuất khẩu). LG cũng đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để đạt mục tiêu này. Tuy nhiên, trong thế giới công nghệ biến đổi nhanh chóng này, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới là vô cùng cần thiết để có thể đi đầu trong cạnh tranh. Về mặt này LG đang dẫn đầu việc phát triển công nghệ nhằm mở rộng tính năng của điện thoại di động và cũng để khám phá ý tưởng “mạng gia đình”. Điều này cho phép các thiết bị gia dụng như tivi, máy rửa chén, điều hòa không khí, lò vi sóng và thậm chí cả máy hút bụi được điều khiển từ một bảng điều khiển duy nhất. Thậm chí cũng có thể điều khiển các thiết bị từ xa qua điện thoại di động. Bạn sẽ về nhà và thấy ngôi nhà hoàn toàn ấm cúng, bản nhạc ưa thích đã được bật sẵn và bữa tối đã sẵn sàng!

 

Ngành dịch vụ

Khi kinh tế Hàn Quốc đã phát triển, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ ngày càng tăng. Lĩnh vực này bao gồm các ngành như ngân hàng, bảo hiểm, bán lẻ, du lịch và vận tải cũng như công việc văn phòng nói chung. Năm 2001, 62% số người lao động ở Hàn Quốc làm việc trong lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực chiếm tôi 61% thu nhập quốc dân. Ngành dịch vụ được dự đoán có thể sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong những năm tới do người Hàn Quốc có thu nhập khả dụng cao hơn và có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn dẫn tới tăng nhu cầu dịch vụ

Du lịch

Một trong những ngành mới phát triển trong kinh tế Hàn Quốc là du lịch. Du lịch quốc tế với giá rẻ hơn và sự thịnh vượng của các nước láng giềng (đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản) đã giúp lượng khách du lịch quốc tế vào Hàn Quốc tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 1990 đến 2002. Lượng khách Hàn Quốc du lịch trong nước cũng tăng đáng kể, có tới 70-80% dân số đều tới các khu du lịch lớn của đất nước ít nhất một lần mỗi năm.

Phần lớn du lịch ở Hàn Quốc tập trung vào các giá trị văn hóa và thiên nhiên mà chính phủ đang ra sức bảo tồn. Ví dụ như làng Dân tộc Hàn Quốc gần Suwon đã được thành lập như một bảo tàng sống để kỷ niệm và giữ gìn các truyền thống và lối sống lịch sử. Khách du lịch có thể tham quan những ngôi nhà truyền thống Triều Tiên, xem thợ thủ công làm việc và thưởng thức những màn nhảy múa và nhào lộn truyền thống. Ở những nơi khác, các công viên quốc gia và công viên của tỉnh được thành lập để bảo vệ vẻ đẹp tự nhiên của các vùng, trong khi vẫn mở cửa có hạn chế cho khách du lịch. Công viên quốc gia Bukhan-san ở ngoại ô Seoul và công viên quốc gia Seorak-san gần Sokcho là hai trong số những công viên quốc gia được tham quan nhiều nhất, lần lượt thu hút lượng khách vào khoảng 4 và 5 triệu người mỗi năm.

Một điểm du lịch nổi tiếng khác là đảo Jeju-do ở ngoài khơi bờ biển phía Nam bán đảo Triều Tiên. Được coi là Hawaii của Hàn Quốc bởi những bãi biển và hàng cọ chạy dài. Đảo Jeju-do là nơi khiến người ta hoàn toàn thoát khỏi nhịp sống xô bồ ở vùng đất liền trong khi chỉ cách Seoul một giờ bay. Không chỉ có những bãi biển cùng núi lửa Hallan-san đầy ấn tượng, đảo Jeju-do còn có các làng nghề truyền thống và một trung tâm hội nghị nổi tiếng, nơi diễn ra rất nhiều sự kiện quốc gia và quốc tế

 

Tổng quan nền kinh tế

Sau bốn thập niên phát triển mạnh và gần như liên tục, nền kinh tế Hàn Quốc bị suy thoái vào năm 1997, dẫn tới một giai đoạn khủng hoảng. Trước thời điểm đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ hàng triệu đôla vào nền kinh tế Hàn Quốc và các nước châu Á đang nổi lên khác với hy vọng “kiếm chác” được từ sự phát triển kinh tế thần kỳ của những nước này. Tuy nhiên, ở nhiều nước trong số những nước này, ngành tài chính đã không được quản lý chặt chẽ khiến cho một lượng tiền lớn được đầu tư vào những dự án có mức độ rủi ro cao và chất lượng thấp. Năm 1997 các nhà đầu tư ở Thái Lan bắt đầu rút tiền ra khi nhận thấy nền kinh tế nước này đang tuột dốc. Việc này đã tạo ra bầu không khí bất ổn và lo sợ ở khắp khu vực Đông Nam Á và nhanh chóng lan rộng tới Hàn Quốc. Các nhà đầu tư đã rút hàng triệu đôla, các công ty phải đối mặt với nguy cơ phá sản về tài chính và hàng nghìn người mất công ăn việc làm do các công ty phải đóng cửa hoặc tái cơ cấu. Sự kiện này đã có tác động lớn tới nền kinh tế. Đồng won của Hàn Quốc đã tuột giá từ tỷ giá 800 won ăn 1 đôla năm 1996 xuống còn 1400 won ăn 1 đôla năm 1998. Tỷ lệ thất nghiệp tăng hơn 3 lần, từ 2% năm 1996 lên 7% năm 1998 (trong đó tỷ lệ thất nghiệp của độ tuổi 15-24 là 15,9%). Kết quả cuối cùng của cuộc khủng hoảng là quy mô nền kinh tế Hàn Quốc thực sự giảm gần 7% vào năm 1998.

Phục hồi và cải cách

Qũy Tiền tệ Thế giới (IMF) đã phải can thiệp để cuộc khủng hoảng tài chính của Hàn Quốc không vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Quỹ này đề ra một loạt cải cách nhằm phục hồi niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường Đông Nam Á. Hàn Quốc nhanh chóng thực hiện những cải cách cần thiết và, vào năm 1999, kinh tế Hàn Quốc đạt mức tăng trưởng 9,5%. Từ đó, kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng, mặc dù với tốc độ chậm hơn thời kỳ trước cuộc khủng hoảng và, đến năm 2003, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn khoảng 3%. Nền kinh tế vẫn đang trên đà phục hồi lại hoàn toàn nhưng cải cách đối với lĩnh vực ngân hàng và kinh doanh vẫn được tiếp tục nhằm tránh lặp lại cuộc khủng hoảng 1997.

Dự án kinh tế biển Hoàng Hải

Một trong những chiến lược phục hồi kinh tế của Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng năm 1997 là xem xét hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn với các nước trong khu vực. Điều này sẽ giúp củng cố và đa dạng hóa nền kinh tế, làm cho nó trở nên vững vàng hơn trước những cú sốc trong tương lai và bớt phụ thuộc vào những thị trường lớn nhưng ít ỏi (Mỹ là một thị trường chính của Hàn Quốc). Dự án kinh tế biển Hoàng Hải là một dự án khu vực như vậy, trong đó Hàn Quốc sẽ đóng vai trò chủ yếu Trung Quốc, Nhật Bản và Bắc Triều Tiên sẽ cùng với Hàn Quốc trở thành các nước thành viên của YSEB, một khu vực ăn sâu vào đất liền 200km tính từ bờ biển Hoàng Hả. Tổng cộng YSEB có dân số hơn 200 triệu người, bao gồm 60 thành phố có trên 1 triệu dân. Năm 2001 YSEB có một thị trường tiềm năng với trị giá lên tới 1,3 nghìn tỷ đôla Mỹ. Hàn Quốc đang xây dựng thành phố New Songdo trên một khu vực khai khẩn được ở ven biển và đó sẽ là thành phố trung tâm của YSEB. Với cơ sở hạ tầng của cảng biển và sân bay quốc tế Incheon ở ngay cửa ngõ thành phố, hy vọng New Songdo sẽ trở thành trung tâm đầu mối của YSEB. Nếu thành công, YSEB sẽ thách thức các cường quốc kinh tế khác như Mỹ và Liên minh châu Âu. Nhưng thành công không chỉ phụ thuộc vào việc tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết mà còn phụ thuộc vào việc vượt qua những khác biệt về chính trị giữa các quốc gia thành viên.

Việt Anh – Tổng hợp

http://thanhnientudo.com

Một suy nghĩ 1 thoughts on “Hàn Quốc ( Phần 1 )

  1. Pingback: Hàn Quốc ( Phần 2 )-Năng lượng và giao thông | Việt Anh

Bình luận đã được đóng.