Nhân LỜI KÊU GỌI KHÔNG DÙNG HÀNG HÓA TRUNG QUỐC của HT. THÍCH QUẢNG ĐỘ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, chúng tôi chuyển đến qúy vị Tập Tài Liệu gồm một số bài mà chúng tôi đã viết về vấn đề này từ năm 2006 cho đến nay.
Lời Kêu gọi của HT.THÍCH QUẢNG ĐỘ
Chúng tôi nhiệt liệt ủng hộ Lời kêu gọi của HT. THÍCH QUẢNG ĐỘ. Đây không phải là Lãnh vực tranh chấp Kinh tế, mà là Bổn phận phải lên tiếng thuộc Lãnh vực cứu nguy Dân tộc khỏi cuộc Xâm lăng Kinh tế của Trung quốc do Nhà Nước VN tiếp tay. Lời kêu gọi không dùng hàng hóa Trung quốc nhằm vào cái ngọn và mang tính cách tức thời. Lời kêu gọi nhằm vào khơi động tinh thần Dân tộc của quần chúng.
Cuộc Xâm Lăng Kinh tế TQ đã mọc rễ
Việc chiếm Hòang Sa và Trường Sa không phải chỉ nguyên việc xâm chiếm mấy hòn đảo, mà chính yếu là việc cưỡng chiếm những tài nguyên như Dầu lửa tại ngòai khơi Việt Nam, đồng thời chiếm giữ nguồn Thủy sản, mạch sống của những Tỉnh ven Biển Đông. Chương trình mà Trung quốc đang nhằm vào đất liền VN, đó là những tài nguyên khóang sản, tỉ dụ Bôxit Tây Nguyên.
Từ cạnh tranh hàng hóa đến diệt Công nghệ sản xuất
Khi nhập WTO/OMC,VN mơ mộng đi hốt bạc, mà không nghĩ rằng những nước ngòai, nhất là Trung quốc, vào chính nhà mình để hốt bạc và giết chết Công nghệ. Thực vậyVN đã không biết người, biết mình. Vào WTO, tức là vào đấu trường. Khi nhập đấu trường mà mình còn yếu ớt thì chỉ để cho người ta đánh rục xuống không thương tiếc. Năm 2006, chúng tôi đã viết những bài về đấu trường WTO/OMC để cảnh cáo cho VN về sự yếu ớt.
Cuộc Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế Thế giới bùng nổ
Việt Nam đã yếu nghèo, một mặt không hốt được bạc trên đấu trường WTO, một mặt tại sân nhà bị nước ngòai, nhất là Trung quốc hốt bạc đem ra, lại còn mắc thêm cái eo nữa, đó là cuộc Khủng hỏang Tài chánh/ Kinh tế Thế giới. Cuộc Khủng hỏang khiến vốn đầu tư nước ngòai giảm xuống tới 82% và việc đặt mua hàng Việt Nam giảm xuống 60%. Cán cân Mậu dịch hòan tòan thất lợi, nhất là đối với Trung quốc.
Những tồn đọng Trung quốc tràn sang Việt Nam.
Kinh tế Trung quốc làm việc chính yếu cho xuất cảng. Cuộc Khủng hỏang Tài chánh/ Kinh tế Thế giới cũng mang đến những tai hại cho Trung quốc giống như Việt Nam. Hàng hóa sản xuất bị tồn đọng, những cơ sở sản xuất lạc hậu thêm. Khi không xuất cảng sang Hoa-kỳ và Liên minh EU được, thì những hàng hóa tồn đọng của Trung quốc hướng về những nước nghèo Á-châu. Trung quốc đã dành ra ngân qũy USD.25 tỉ để lo liệu việc đẩy những hàng tồn đọng sang các nước nghèo Á châu. Việt Nam là nước mà Trung quốc nhằm hơn cả vì là đầy tớ chính trị cho TQ.
Việt Nam trở thành con nợ hèn hạ của Trung quốc
Trong tình cảnh thiếu thốn, nghèo khổ, lại thêm bụng tham nhũng cá nhân được Cơ Chế che chở, VN sẵn sàng nhận làm con nợ đê hèn cho Trung quốc. Dân tộc Việt Nam sẽ phải è lưng làm việc để trả trường kỳ những món nợ mà VN nhận với Trung quốc lúc này. Trung quốc cho Việt Nam vay nợ không phải bằng tiền mặt, mà bằng hàng hóa, thiết bị phế thải từ những nhà máy cũ, nhân công thất nghiệp đầy tràn tại Trung quốc. Qua những Dự án, Trung quốc đẩy vật dụng tồn đọng, những nhà máy cũ, những nhân công Trung quốc sang Việt Nam. Tất cả những vật dụng, nhà máy cũ và nhân công ấy được tính ra bằng tiền để Việt Nam nhận nợ mà Dân tộc phải hòan trả dài hạn sau này.
Chuyên gia Kinh tế VN lên tiếng và bị khóa miệng
Trước cảnh xâm lăng Kinh tế có hệ thống như trên, những Chuyên gia Kinh tế Việt Nam đã lên tiếng qua cuộc Họp Trực Tuyến của Vietnamnet và qua Tổ chức IDS. Nhưng VN đã do Tầu ra lệnh (Hồ Sở Câm) khóa miệng những tiếng nói chính đáng cho quyền lợi Kinh tế của Dân tộc Việt Nam. Nhà Nước VN đã quá yếu hèn không những chấp nhận cuộc xâm lăng Kinh tế, mà còn bắt bớ, đe dọa tất cả những ai nói đụng đến Tầu.
Cuộc xâm lăng Kinh tế của Trung quốc đã mọc rễ sâu. Không những tức thời chúng ta bài trừ hàng hóa Trung quốc như Lời Kêu Gọi của Hòa Thượng THÍCH QUẢNG ĐỘ, mà còn phải nỗ lực đào những cái rễ xâm lăng đã ăn sâu trên Đất nước Việt Nam.
QUA WHO/OMC,
HÀNG TRUNG QUỐC & NƯỚC NGÒAI
DIỆT KINH TẾ VN TRÊN SÂN NHÀ
NHỮNG CÁI HẠI GẶP PHẢI
KHI VÀO WTO/OMC
Vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO/OMC), nghĩa là Việt Nam nhập vào Cạnh tranh của Thị trường tự do. Nói đến Cạnh tranh, việc trước hết là phải biết mình có khả năng có thể cạnh tranh với người khác hay không, nếu không người khác sẽ đánh cho mình chết trong trứng nước hoặc lụn bại luôn. Việc cạnh tranh là ở chính trên nước mình, chứ không phải là Thị trường quốc tế tại những nưỡng nước khác. Dường như VN sống trong mơ mộng rằng vào WTO/OMC là đi hốt bạc tại những nước khác, mà quên đi rằng những nước khác có quyền vào chính nước mình để thu bạc đem ra.
Khả năng cạnh tranh của Việt Nam
Yêu cầu chế độ đừng ngông nghênh kiêu ngạo tự khen mình, coi mình như nhất nhì thiên hạ. Tôi còn nhớ câu chuyện một Tùy viên Quân sự của Sứ quán Việt Cộng bên cạnh Liên Hiệp Quốc nói với tôi rằng: “Thế Giới có 5 Tướng tài, Việt Nam chiếm 3“. Tôi nhịn cười không được bởi vì thấy ông ấy nói thành thực và ngây ngô chứ không phải là nói diễu chơi cho vui. Vấn đề vào WTO/OMC không còn phải là tự khoe mình ngông nghênh, tuyên truyền cho chế độ nữa. Vào WTO/OMC là vấn đề tiền bạc thực tiễn: cạnh tranh không nổi thì mất tiền, cạnh tranh thắng thì có tiền. Còn nếu chỉ nhằm khoe khoang, mơ mộng, thì chết đói. Đó là thực tiễn, chứ không dỡn chơi.
Nếu xét về việc tiến triển phần nào Kinh tế hiện hành, đó là nhờ sự đấu tranh Kinh tế của khối tư doanh và nhờ chính yếu nguồn ngoại tệ từ phía Việt kiều. Một số người nhìn sự tiến triển ấy, đã lầm lẫn hoặc cố ý nịnh đầm, đã cho rằng đó là công của VN. Nói như vậy là không hiểu gì về nguyên tắc phát triển Kinh tế. Dân làm Kinh tế và phát triển Kinh tế, chứ không phải quyền lực Chính trị. Khối Cộng sản đã chủ trương làm Kinh tế để bao cấp Dân và họ đã hoàn toàn thất bại đến chỗ Dân đòi lại quyền làm chủ Đất Nước để nắm trong tay quyền làm ăn phát triển Kinh tế.
Tại Việt Nam, Dân nghèo phải làm ăn để có đủ sống. Họ nhờ nguồn tài trợ từ khối người Tỵ nạn thương gia đình còn ở lại. Khi phải tự mình kiếm sống, họ phải tìm đủ mọi cách tránh né sự áp chế, dành quyền kinh tế từ những Công ty quốc doanh. Khi phải tự mình kiếm sống, họ đã phải cay đắng cho VN ăn bẩn, ăn thỉu để có thể có việc làm, có cơ hội doanh thương tự họ. Khi phải tự mình kiếm sống, người Dân đã phải cay đắng nhận những đồng lương bóc lột mà VN bán họ cho nước ngoài và ăn hớt tiền trên sức lao động của họ. Nhìn như vậy, xin hãy nói cho đúng rằng nếu có những tiến triển kinh tế hiện nay, thì đó là từ sự cố gắng vượt mực của Dân. Chính VN đã cản mũi kỳ đà sức cố gắng phát triển này của người Dân. Những ai há mõm khen VN làm cho Kinh tế phát triển một phần hiện nay, đó là những người nói ngu xuẩn, thiếu học về nguyên tắc phát triển Kinh tế. Tôi thẳng thắn nói vậy và sẵn sàng trả lời những ai ngu xuẩn khen tặng VN một cách nịnh đầm vô lương tâm và hèn hạ.
Sự phát triển kinh tế một phần hiện nay chưa cho phép Việt Nam tự hào rằng mình đã có đủ lực cạnh tranh trên Thị trường quốc tế. Vào WTO/OMC phải cấp tốc đẩy mạnh những gì đã có một phần phát triển. Việc đẩy mạnh này thiết yếu đòi phải dành quyền cho Dân bởi những phát triển kia là từ sức cố gắng của Dân, chứ không phải từ quyền lực VN, một quyền lực cản mũi kỳ đà cho phát triển.
Hàng hóa quốc tế diệt hàng hóa Việt Nam tại chính nước mình
Trên đây, chúng tôi nói tổng quát đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Trong đoạn này, chúng tôi nhìn xem những hàng hóa nước ngoài diệt chính hàng hóa Việt Nam tại quốc nội như thế nào. Trong đoạn tiếp theo, chúng tôi quan sát khả năng cạnh tranh của những hàng hóa Việt Nam bên cạnh những hàng hóa nước ngoài trên Thị trường quốc tế.
=> HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ NGƯ NGHIỆP
Chúng tôi đã nhiều lần nói đến sự cạnh tranh chính yếu đến từ Thái Lan. Nguồn sản phẩm nông nghiệp và ngư nghiệp (Conditions géographiques—Ressources naturelles) giống nhau giữa Thái Lan và Việt Nam. Nhân lực làm việc (Conditions démographiques) về những ngành này cũng không khác gì nhau. Nhưng có sự khác biệt rất rõ rệt về điều kiện Chính trị—Pháp lý (Conditions Politico-Juridiques): một đàng (Thái Lan) dành phần khai thác cho Tư nhân, một đàng (Việt Nam) dành cho quốc doanh (người của độc đảng) những quyền khai thác, bóc lột ưu tiên. Ai cũngt biết rằng khi việc khai thác nằm trong tay quyền lực Chính trị, thì không thể không có lãng phí và tham nhũng được bao che, và do đó năng xuất khai thác không thể nào được phát triển như trong Điều kiên Chính trị—Pháp lý Dân chủ.
Trong việc khai thác, hai yếu tố chính sản xuất là Vốn và Nhân lực (K: Capital, L:Labour). Nếu nhân lực sản xuất giống nhau giữa Thái Lan và Việt Nam, thì có sự chênh lệch rất rõ rệt việc đầu tư Vốn vào hai ngành nông nghiệp va ngư nghiệp giữa hai nước: Thái Lan đầu tư vốn 8 lần hơn Việt Nam vào hai ngành này.
Hiện nay, mặc dầu chưa vào WTO, mà hàng nông nghiệp và ngư nghiệp của Thái Lan đã cạnh rất ưu thế tại chính Việt Nam. Những hàng nông nghiệp của Thái Lan như gạo, trái cây… được coi là hàng sang và đã lan tràn ở Việt Nam. Dân Việt mua gạo Thái để ăn, mua trái cây của Thái để cúng vái, để ăn những dịp lễ. Những hàng gia vị của Thái cũng đang lan tràn tại chính quốc nội.
=> HÀNG KỸ NGHỆ BIẾN CHẾ NÔNG PHẨM VÀ NGƯ PHẨM
Việc phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp phải có Kỹ nghệ biến chế những sản phẩm này tại chỗ. Không có Kỹ nghệ này tại chỗ, thì rất khó phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp. Những hàng kỹ nghệ biến chế nông phẩm và ngư phẩm nhằm nối dài thời gian xử dụng trong tương lai (thời gian) và mở rộng địa vực xử dụng đến những nơi không có những hàng nông nghiệp và ngư nghiệp (không gian). Tỉ dụ, nước Ý có kỹ nghệ làm Cà Chua Hộp để nâng đỡ việc trồng Cà Chua, nếu không Cà Chua dễ thối.
Kỹ nghệ biến chế nông phẩm và ngư phẩm tại Việt Nam, xứ có nguồn dồi dào về ngư nghiệp và nông nghiệp, lại thua kém hẳn Thái Lan, Tân Gia Ba và Đài Loan. Như vậy, những hàng kỹ nghệ biến chế nông phẩm và ngư phẩm tràn vào Việt Nam và cạnh tranh trong phần thắng.
=> HÀNG CÔNG NGHỆ THÔNG DỤNG HÀNG NGÀY
Đây là những hàng công nghệ thường dùng hàng ngày. Những hàng này không thuộc loại hàng hóa phức tạp (Produits sophistiqués) cần phải có một trình độ kỹ thuật cao. Tỉ dụ như bát đĩa, xoong chảo, nồi cơm điện, xe hai bánh, quạt máy, phích nước…, đó là những đồ công nghệ thông dụng hàng ngày.
Hiện nay, ngay chưa nhập WTO, những hàng này đang diệt những hàng tương tự sản xuất tại Việt Nam. Nhà Nước Việt Nam mới tuyên bố rằng khi vào WTO, những hàng này của Trung Cộng còn được giảm xuống 16% nữa cho thuế nhập cảng. Như vậy khả năng những hàng này cũa Tầu diệt hàng Việt Nam càng tăng lên hơn nữa.
Tại sao Trung Cộng có khả năng cạnh tranh cao về những hàng công nghệ này ? Trong sản xuất, việc cạnh tranh là giá thành của hàng hóa. Muốn hạ giá thành, thì phải tăng số lượng sản xuất. Trung Cộng có khả năng tăng lượng sản xuất vì họ có khối lượng dân số 1 tỉ rưỡi. Hàng sản xuất không sợ ứ đọng vì đã có khối dân không lồ bảo đảm việc tiêu thụ hết hàng hóa.
=> HÀNG KỸ NGHỆ MÁY MÓC CAO & PHỨC TẠP
Những hàng Kỹ nghệ Máy móc cao và phức tạp (Produits sophistiqués) hầu như chưa phát sinh tại Việt Nam, nên chưa nói đến việc cạnh tranh được. Việt Nam mới bắt đầu sản xuất thuê những linh kiện (pìeces détachées) cho những Công ty nước ngoài, chứ chưa ở mức độ sản xuất những máy móc phức tạp (Produits sophistiqués) như sản phẩm cuối cùng sẵn sàng cho tiêu thụ (Produits finis prêts à la consommation).
Việc cạnh tranh những hàng hóa này là việc cạnh tranh xử dụng Kỹ thuật tân tiến và cao (Haute Technologie moderne). Muốn có những Kỹ thuật tân tiến và cao, thì phải đầu tư những số Vốn lớn. Việt Nam chưa có khả năng Vốn lớn đầu tư, vì vậy hàng hóa trong phạm vi này không thể có khả năng cạnh tranh, thậm chí chưa sinh ra.
Những máy móc cao và phức tạp của những nước chung quanh sẽ tràn vào và diệt hàng Việt Nam trong trứng (chưa sinh ra). Những nước này là: Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, ngay cả Thái Lan và Mã Lai.
=> NHỮNG DỊCH VỤ (SERVICES)
Dịch vụ đầu tiên là Dịch vụ Phân phối hàng hóa (Thương mại). Khi vào WTO, những Tổ chức phân phối đa quốc gia (Chaines de Distribution Multinationales) có quyền mở rộng Thị trường phân phối tại Việt Nam. Nếu không vào WTO, những Tiểu thương hoặc những Nhà phân phối quốc nội được che chở phần nào trước sức mạnh của những Tổ chức phân phối đa quốc gia. Khi vào WTO, những Tổ chức này dễ dàng bóp chết hệ thống phân phối quốc nội vì những Tổ chức đa quốc gia này có số vốn khổng lồ để che chở việc cạnh tranh bán hàng hóa.
Ngoài Dịch vụ Phân phối hàng hóa, còn nhưng Dịch vụ độc lập khác như Kiểm Toán, Bảo Hiểm, Nha sĩ, Bác sĩ… Nếu những Dịch vụ này hiện diện ở Việt Nam vì phải tôn trọng Tự do lưu thông hàng hóa và dịch vụ khi vào WTO, thì sự cạnh tranh rất là gay gắt cho những dịch vụ từ người Việt tại quốc nội. Dân Việt chọn lựa những Dịch vụ từ người nước ngoài vì có nhiều những tin tưởng hơn (!). Tỉ dụ chọn Kiểm toán nước ngoài hơn là Kiểm toán quốc nội; chọn Bảo Hiểm ngoại quốc có nhiều tin tưởng hơn…
Hàng hoá Việt Nam thua kém cạnh tranh trên Thị trường quốc tế
Ở đoạn trên, chúng tôi nói đến việc cạnh tranh quan trọng nhất, đó là những hàng hóa nước ngoài cạnh tranh với những hàng hoá Việt Nam hoặc diệt chính những hàng hóa Việt Nam trên lãnh thổ của Quê Hương mình.
Trong đoạn này, chúng tôi nói đến việc cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi đứng bên cạnh hàng hóa các nước khác trên Thị trướng quốc tế:
=> Hàng nông nghiệp và ngư nghiệp
Nói ngay đến khối người Việt tỵ nạn, họ đã phải tiêu thụ hàng nông nghiệp và ngư nghiệp Thái Lan trong 30 năm rồi. Trong thị trường quốc tế về hàng nông nghiệp và ngư nghiệp, còn phải kể đến những nước cạnh tranh khác: Nam Mỹ, các nước Đông Âu,Ấn độ, Nam Dương.
Hàng kỹ nghệ chế biến nông phẩm và ngư phẩm
Việt Nam chưa sánh được ngay cả với những nước trong vùng như Đài Loan, Tân Gia Ba, Thái Lan, Mã Lai…, huống chi nói đến những nước đã mở mang trên Thế Giới. Những nước nông nghiệp, chăn nuôi như Nam Mỹ, đang mở mang mạnh kỹ nghệ chế biến thực phẩm. Đông Aâu đang mở mang mạnh về những kỹ nghệ biến chế thực phẩm này. Những nước tân tiến như Mỹ, Pháp, Ý, Tây Ban Nha…cần mở mang những kỹ nghệ biến chế nông phẩm này để nâng đỡ phát triển nông nghiệp của họ.
=> Hàng công nghệ thường dùng
Hàng Trung Cộng đang tràn lan. Việt Nam khó cạnh tranh với Trung Cộng về những hàng hóa thông dụng hàng ngày này.
=> Những máy móc cao và phức tạp
Không thể có, lúc này, sự cạnh tranh của Việt Nam ở Thị trường quốc tế về những máy móc. Tôi chưa thấy có chiếc Ti-Vi “made in Vietnam“ bán ở Thị trường Thụy sĩ.
=> Những Dịch vụ (Services)
Đến bao giờ mới có Dịch vụ Kiểm toán Việt Cộng ở Thị trường Pháp, Đức… ?
NHỮNG BIỆN PHÁP CHỐNG LẠI NHỮNG CÁI HẠI
Phần trên đây phân tích về những điểm yếu, những cái nguy hại cho Việt Nam khi gia nhập WTO/OMC. Phần này nói đến những biện pháp nào để mong tránh hoặc ngăn chặn những cái nguy hại có thể xẩy ra.
Mặc dầu vào WTO rồi, nghĩa là phải thi hành Tự do Giao thương, nhưng có biện pháp nào tránh né cái Tự do đó hay không trong việc cạnh tranh? Đó là biện pháp tiêu cực.
Nhưng chúng ta phải nghĩ đến những biện pháp tích cực nhằm tăng cường cho chính khả năng cạnh tranh của mình.
Quyền che chở cho những kỹ nghệ đang phát sinh
Mặc dầu vào WTO, một Tổ chức luôn cổ võ Tự do Mậu dịch, cổ võ việc dành cho nhau Điều khoản “Quốc gia tối ưu đãi“ (Clause de la nation la plus favorisée), nghĩa là tuyên bố tình yêu với nhau, quyền Che chở cho những kỹ nghệ đang phát sinh vẫn được tôn trọng.
Đứng về mặt nguyên tắc và lý thuyết, Tự do Mậu dịch (Le Libre Echange) vẫn không khai trừ nguyên tắc Che Chở cho Kỹ nghệ đang phát sinh (Le Protectionnisme des Industries naissantes). Về nguyên tắc này, chúng tôi đã mới nói trong cuộc Phỏng vấn của Đài RFI (Radio France Internationale).
Nhân sự va chạm giữa CNUCED và WORLD BANK trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc qua cuộc Hội Nghị nhận định về sự phát triển của những nước nghèo hoặc đang mở mang, ngày 13.09.2006, Đài RADIO FRANCE INTERNATIONALE (RFI) phỏng vấn tôi về 4 câu hỏi:
1) Tại sao Trung Cộng có thể bán phá giá hàng hóa trên Thị trường Quốc tế ? CNUCED coi đây là một sự thành công mà các nước kém mở mang có thể học đòi theo, đồng thời công kích Ngân Hàng Thế Giới đã trợ lực tài chánh cho các nước nghèo mà hiệu quả không gặt hái được cụ thể.
2) Vậy các nước nghèo có thể áp dụng được chính sách xuất cảng hàng hóa mà Trung Cộng đã áp dụng hay không ?
3) Tại sao chính sách hỗ trợ tài chánh cho những nước nghèo mà Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) chủ trương trong nhiều năm nay lại không đưa đến những kết quả tốt cụ thể?
4) Nhận xét về hậu quả như thế nào khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO/OMC) ?
Tôi đã trả lời về 4 vấn đề nêu ra trên đây. Câu hỏi thứ tư liên hệ đến Việt Nam khi vào WTO. Chúng tôi đã khai triển câu hỏi này trong phần trên đây, vì vậy chúng tôi không nhắc lại trong phần này nữa mà chỉ nhấn mạnh đến cái Quyền Che chở Kỹ nghệ đang phát sinh mặc dầu Việt Nam vào WTO với Tự do Mậu dịch (Libre Echange) để chúng ta tìm cách che chở những cái thiệt hại cho nước mình khi mình thiếu khả năng cạnh tranh.
=> Trả lời cho câu hỏi 1
Nếu CNUCED coi đây là một Mô hình Kinh tế sáng kiến bởi Trung Cộng, thì đó là không đúng. Đây chỉ là một Chính sách Thương mại quốc tế mà những nước kém mở mang có quyền Bảo vệ những ngành Kỹ nghệ đang phát sinh (Protectionnisme des Industries naissantes). Chủ trương này không phải là sự phát minh của Trung Cô.ng. Việc chủ trương bảo vệ những Kỹ nghệ đang phát sinh này đã có trong Lịch sử Thương mại của những nước tư bản. Sau Cách mạng Kỹ nghệ của Anh quốc, nước này trở thành mạnh nhất Thế giới (cuối Thế kỷ 19-đdầu Thế kỷ 20) và muốn chiếm Thị trường quốc tế, đã kêu gọi và cực lực thuyết minh cho Chính sách Tự do Mậu dịch (Libre Echange) dựa trên những Thuyết lý Kinh tế của Adam SMITH, David RICARDO và Stuart MILL. Chính thời này, Hoa kỳ và Đức, còn trong thời kỳ gây dựng cho những Kỹ nghệ đang phát sinh, đã chủ trương Bảo vệ những Kỹ nghệ đang phát sinh này (Protectionnisme des Industries naissantes) chống lại hàng hóa của Anh quốc. Lý thuyết gia Frederic LIST đã hùng hồn thuyết minh cho chủ trương Bảo vệ những Kỹ nghệ mới phát sinh (Protectionnisme des Industries naissantes). Ngày nay, Hoa kỳ và Đức đã trưởng thành về những Kỹ nghệ này, nên lại cực lực thuyết minh cho Tự do Mậu dịch (Libre Echange), thậm chỉ kêu gào cho Toàn cầu hóa (Globalisation). Vậy thì Tự do Mậu dịch (Libre Echange) hay Bảo vệ Mậu dịch (Protectionnisme) chỉ là tương đối tùy theo sức mạnh Kinh tế của nước đứng ra kêu gọị
Việc Trung Cộng bảo vệ những Kỹ nghệ đang phát sinh của mình là việc có quyền của những nước đang phát triển. Tự do Mậu dịch là một điều lý tưởng, những phải giả thiết rằng mọi Nước tham dự phải có sức mạnh Kinh tế đồng đềụ Điều này rất khó thực hiện trên Thế giới và luôn luôn là nguồn tranh cãi không lối thoát giữa đa số những nước nghèo và thiểu số những nước giầu qua những Vòng Thương Nghị (Tokyo Round, Kennedy Roung, Uruguay Round…) trong khuôn khổ GATT (tiền thân của WTO/OMC).
Việc Bảo vệ những Kỹ nghệ đang phát sinh khác với việc xử dụng quyền lực độc đoán bóc lột nhân công để có thể bán phá giá hàng hóa trên Thị trường Thế giớị Chấp nhận trên nguyên tắc rằng những nước đang mở mang có quyền bảo vệ những Kỹ nghệ đang phát sinh, nhưng không thể chấp nhận việc hai nước Trung Cộng và Việt Cộng xử dụng quyền độc tài để bóc lột lương nhân công và để hạ giá thành hàng hóa, từ đó bán phá giá trên Thị trường quốc tế.
=> Trả lời cho câu hỏi 2
Các Nước nghèo hoặc đang trên đà phát triển có quyền BẢO VỆ NHỮNG KỸ NGHỆ ĐANG PHÁT SINH, nhưng CNUCED không thể khuyên họ hãy trở tha `nh một nước Cộng sản chủ trương chế độ độc tài để bóc lột sức lao động của nhân công như Trung Cộng và Việt Cộng đang làm. CNUCED muốn lấy khôn lỏi của Kinh tế để đè bẹp Nhân quyền hay sao?
=> Trả lời cho câu hỏi 3
Chủ trương của Ngân Hàng Thế Giới muốn trợ lực tài chánh cho những Nước nghèo là rất đúng bởi vì với chủ trương Toàn cầu hóa việc bán hàng hóa từ G8 hiện nay đồng thời cũng là việc Tập trung hóa Tài chánh về những nước giầu, thì hố sâu giầu nghèo giữa các nước sẽ khơi rô.ng.
Globalisation des Marchandises == Centralisation Financiere
Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) đã chủ trương việc tái phân phối tài chánh đến những nước nghèọ Đây là chủ trương rất nhân đạọ Nhưng tại sao chủ trương này không mang đến những hiệu quả tốt cụ thể. Tôi đã trả lời rất rõ rệt rằng sở dĩ không đạt được những hiệu quả tốt cụ thể là vì hai điều:
=> Việc tài trợ này qua các Chính phủ tại những nước kém mở mang. Những Chính phủ này có đầy tham nhũng lãng phí tài chánh làm thất toát số vốn tài trơ..
=> Ngân Hàng Thế Giới, một là thiếu phương tiện kiểm soát, hai là không đủ khả năng kiểm soát chặt chẽ về tài chánh đối với quyền lực chính trị của những nước ấỵ
Những Biện pháp không giá biểu
Tất cả những Đàm phán về Thương mại Song phương (Bilatéral: tỉ dụ Hoa kỳ—Việt Nam), từng Vùng (Régional: tỉ dụ Union Eropéenne) hay Thế Giới (Mondial: tỉ dụ WTO/OMC) đều mong đưa đến một Hợp Đồng về giá biểu. Những giá biểu này gọi là Giá Biểu Hợp Đồng cho Quan Thuế (Tarifs douaniers contractuels).
Khi nói đến Giá Biểu Hợp Đồng, thì hai nước, hoặc những nước cùng Vùng hoặc tất cả mọi nước trên Thế Giới coi nhau đồng đều và phải áp dụng những Giá Biểu đã kỳ kết.
Nhưng trên thực tế, có nước mạnh, nước yếu không đồng đều. Chính vì vậy, mặc dầu những Giá Biểu Hợp Đồng được ký kết mà mỗi nước tùy theo sức lực riêng, điều kiện cạnh tranh riêng, có thể áp dụng những Biện Pháp không Giá Biểu. Ngay cả trong phần Lý thuyết về Tự do Mậu dịch, những lý thuyết gia cũng biện minh cho những Biện Pháp không Giá Biểu gọi là “Les Mesures non-tarifaires“, như:
=> Biện Pháp Hạn chế Lượng (Contingentement/ Quotas)
=> Biện Pháp Kiểm soát Hối đoái (Controle de Change)
=> Biện Pháp Kỹ thuật (Mesure Technique)
=> Biện Pháp Hành chánh (Mesure Administrative)
Tất cả những Biện Pháp này là những “hiểu ngầm thông cảm hữu lý“ cho những nước quá bị thiệt thòi khi áp dụng đúng theo nhữn Giá Biểu Quan Thuế theo Hợp Đồng (Tarifs Douaniers Contractuels)
Đường lối nâng cao khả năng cạnh tranh
Hai Cách thế trình bầy trên đây: (1) Che Chở cho những Kỹ nghệ đang phát sinh (Protectionnisme des Industries naissantes); và (2) Những biện pháp không giá biểu (Mesures non-tarifaires) là hai Cách thế mang tính cách tiêu cực trong những quan hệ Thương mại quốc tế khi mà những nước ký với nhau trong Hợp Đồng không có sức mạnh cạnh tranh đồng đều như nhau.
Đường lối nỗ lực tự mình nâng cao khả năng cạnh tranh là Chính sách luôn luôn được khuyến khích. Đường lối này phải đến từ sức mạnh Kinh tế Tự do và Thị trường đích thực mà người Dân làm chủ Kinh tế, Nhà Nước không can thiệp trực tiếp vào đời sống Kinh tế bằng quyền lực.
Trả lời Phỏng vấn của RFI, tôi đã lưu ý đến việc nâng cao cạnh tranh của Trung Cộng và Việt nam một cách bất chính và vi phạm Nhân quyền. Thực vậy, đây không phải là việc nâng cao cạnh tranh một cách lành mạnh trong ý nghĩa chính đáng Kinh tế. Trung Cộng đã dùng bạo quyền bóc lột sức lao động của công nhân, ép buộc công nhân phải chấp nhận đồng lương rẻ mạt, như vậy Nhà Nước mới hạ được giá thành của hàng hóa và có khả năng bất chính cạnh tranh. Không những bất chính trên Thị trường quốc tế, mà Trung Cộng còn dùng bạo quyền đàn áp Nhân quyền, bóc lột sứ lao động của Dân cho quyền lợi của cá nhân mình qua việc tham nhũng, lấy tiền thưởng của nước ngoài khi họ vào Việt mua sức lao động rẻ mạt mà Công nhân “không dám than vãn“ lên nghiệp đoàn Công nhân do chính đảngVN nắm giữ.
Quốc tế công kích và tăng thuế nhập cảng về hàng da từ Trung Cộng và Việt Cộng là vì tính cách bóc lột công nhân của hai nước này vậy.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN,
( Còn tiếp )
Vì nền Kinh tế Việt Nam , vì an nguy của sức khoẻ cộng đồng và vì cuộc sống của chính gia đình bạn hãy chia sẻ bài viết cho bạn bè .
by thanhnientudo .

