Quản lý hợp cách và nhân quyền

  
Trường Sơn chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Theo United Nations Human Rights
Tổng quan



Quản lý hợp cách là gì?



Không có định nghĩa duy nhất và đầy đủ, cũng không có sự phân định rạch ròi về giới hạn, đối với khái niệm “Quản lý hợp cách” [Good governance], thuật ngữ này được chấp nhận một cách phổ quát. Thuật ngữ này cũng được sử dụng với sự linh hoạt tuyệt vời; đây là một lợi thế, nhưng cũng là nguồn gốc của một số khó khăn khi đưa vào ứng dụng. Tùy thuộc vào ngữ cảnh và trọng tâm hướng đến, quản lý hợp cách, trong những thời điểm khác nhau, luôn bao gồm những yếu tố: tinh thần thượng tôn nhân quyền, pháp quyền, tinh thần hợp tác tích cực, quan hệ đối tác đa chiều, nền chính trị đa nguyên, tính minh bạch đi cùng với trách nhiệm giải trình và hình thức của thể chế, một lĩnh vực công hiệu lực và hiệu quả, tính hợp pháp, khả năng tiếp cận tri ​​thức, thông tin, giáo dục, và tăng cường vị thế chính trị của người dân, sự công bằng, tính bền vững, cùng những thái độ và hệ giá trị thúc đẩy tinh thần trách nhiệm, đoàn kết và khoan dung.

Phát triển bền vững và quản lý hợp cách

Tuy nhiên, phần lớn dư luận vẫn đồng tình rằng quản lý hợp cách liên quan đến những quy trình và kết quả trong lĩnh vực chính trị và thể chế, vốn luôn được xem là trọng yếu đối với các mục tiêu phát triển. Có ý kiến cho rằng quản lý hợp cách chính là quy trình mà các cơ quan công quyền dựa vào đó để tiến hành những công tác xã hội, quản lý nguồn lực công và đảm bảo việc thực thi nhân quyền một cách cơ bản không bị lạm dụng và biến chất, trong tương thích với những quy định của pháp luật. Thử thách thực sự đối với quản lý “hợp cách” là ở khả năng hiện thực hóa được những lời hứa về quyền con người: trong dân sự, văn hóa, kinh tế, chính trị và quyền lợi xã hội. Những câu hỏi trọng tâm là: liệu những hình thái của sự quản lý có đảm bảo duy trì, với đầy đủ hiệu lực, quyền lợi trong lĩnh vực y tế, nhà ở, thực phẩm, chất lượng giáo dục, tư pháp và an ninh cho người dân?
Thuộc tính quan trọng của Quản lý hợp cách

  
Khái niệm quản lý hợp cách đã được xác lập bởi công trình của cựu Ủy ban Nhân quyền[1]. Trong Nghị quyết 2000/64[2], Ủy ban đã xác định các thuộc tính quan trọng của quản lý hợp cách:
Tính minh bạch

Tinh thần trách nhiệm

Trách nhiệm giải trình

Tinh thần hợp tác

Tính cởi mở (trước nhu cầu và nguyện vọng của người dân)

Qua việc liên kết quản lý hợp cách với mục tiêu phát triển con người bền vững, nhấn mạnh những nguyên tắc như trách nhiệm, sự hợp tác và thụ hưởng quyền con người, và từ chối những cách tiếp cận mang tính chỉ thị trong hỗ trợ phát triển, nghị quyết này đóng vai trò như một bằng chứng tiềm ẩn của phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người đối với những mục tiêu phát triển.
Nghị quyết 2000/64 rõ ràng đã liên kết vấn đề quản lý hợp cách trong một môi trường thuận lợi với việc thụ hưởng các quyền con người và “thúc đẩy nhân lực tăng trưởng và phát triển bền vững”. Bằng việc nhấn mạnh tầm quan trọng của mục tiêu hợp tác cùng phát triển trong vấn đề quản lý hợp cách của những nước cần sự hỗ trợ từ bên ngoài, nghị quyết này cũng đã công nhận giá trị của khuynh hướng tiếp cận dựa trên tinh thần hợp tác để cùng phát triển và sự không phù hợp của hệ thống phương pháp tiếp cận mang tính chỉ thị.
Quản lý hợp cách và Nhân quyền liên quan với nhau như thế nào?

  
Quản lý hợp cách và nhân quyền luôn hỗ trợ lẫn nhau. Những nguyên tắc nhân quyền cung cấp một tập hợp các giá trị để định hướng công việc của chính phủ và các tổ chức chính trị, xã hội khác. Những nguyên tắc này cũng đồng thời cung cấp một tập hợp các tiêu chuẩn hành vi quy định trách nhiệm của những tổ chức như vậy. Hơn nữa, nguyên tắc nhân quyền còn xác lập nội dung của nỗ lực quản lý hợp cách: qua việc trình bày sự phát triển của các khuôn khổ pháp lý, hệ thống chính sách, chương trình, kế hoạch phân bổ ngân sách và các biện pháp khác.
Mặt khác, nếu không có quản lý hợp cách, nhân quyền không thể được tôn trọng và bảo vệ về lâu dài. Việc thực hiện các quyền con người cần phải dựa vào một môi trường thuận lợi và khả dĩ. Một môi trường như vậy phải bao gồm các khuôn khổ pháp lý phù hợp với những cơ quan, cũng như hệ thống quy trình chính trị, quản lý hành chính tương ứng và trách nhiệm đáp ứng quyền và nhu cầu căn bản của nhân dân.
Mối liên kết giữa quản lý hợp cách và nhân quyền có thể được kiến tạo xung quanh bốn lĩnh vực:
Thể chế dân chủ

Khi được dẫn dắt bởi hệ thống giá trị nhân quyền, những cải cách từ việc quản lý hợp cách trong những thể chế dân chủ mở đường cho công chúng tham gia vào những quy trình hoạch định chính sách một cách trực tiếp qua những cơ quan hoặc gián tiếp bằng những truy vấn. Hệ thống giá trị này cũng thiết lập cơ chế cho việc tập hợp nhiều tổ chức xã hội trong quá trình hoạch địch chính sách, đặc biệt về mặt cục bộ. Cuối cùng, chúng có thể khuyến khích xã hội dân sự và các cộng đồng địa phương xác lập và thể hiện vai trò của họ trong việc quyết định những vấn đề cấp thiết đối với họ.
Phân phối dịch vụ công

Trong lĩnh vực phân phối dịch vụ công đến nhân dân, những cải cách đến từ việc quản lý hợp cách cũng thúc đẩy nhân quyền bằng cách nâng cao năng lực của nhà nước để đáp ứng đầy đủ trách nhiệm trong cung cấp hàng hóa công cộng vốn rất cần thiết để bảo vệ một số quyền con người, chẳng hạn như quyền được giáo dục, được hỗ trợ về y tế và thực phẩm. Hệ thống sáng kiến ​​cải cách có thể bao gồm cơ chế trách nhiệm và minh bạch, những hiệu chỉnh cần thiết trong những vấn đề văn hóa nhạy cảm để đảm bảo rằng ai cũng có thể tiếp cận và chấp nhận những dịch vụ này, cũng như tạo điều kiện để công chúng tham gia vào việc quyết định chính sách.
Pháp quyền

Khi bàn đến pháp quyền, những sáng kiến tinh tế đến từ việc quản lý hợp cách, trong mối tương liên với nhân quyền, sẽ cải cách pháp chế và hỗ trợ các tổ chức khác nhau, từ những hệ thống hình sự đến tòa án và các nghị viện, để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp chế ấy. Sáng kiến như vậy có thể bao gồm việc vận động cải cách pháp luật, vận động nâng cao nhận thức của công chúng về khuôn khổ pháp lý ở tầm quốc gia và quốc tế, cũng như trong vấn đề xây dựng năng lực hay cải cách thể chế.
Chống tham nhũng

Trong cuộc chiến chống nạn tham nhũng, những nỗ lực trong việc quản lý hợp cách phải dựa vào những nguyên tắc như tinh thần trách nhiệm, tính minh bạch và tinh thần hợp tác để hình thành các biện pháp chống tham nhũng. Các sáng kiến ​​có thể bao gồm việc thành lập các dạng tổ chức như ủy ban chống tham nhũng, tạo dựng những cơ chế chia sẻ thông tin và giám sát việc chính phủ sử dụng công quỹ và thực thi chính sách.
Quản lý hợp cách, nhân quyền và mục tiêu phát triển



Mối tương liên giữa quản lý hợp cách, nhân quyền và mục tiêu phát triển bền vững đã được khẳng định trực tiếp hoặc gián tiếp bởi cộng đồng quốc tế trong nhiều bản tuyên bố và những dạng tài liệu khác trong các hội nghị toàn cầu. Ví dụ, Tuyên bố về Quyền Phát triển[3],[4] khẳng định rằng mỗi cá nhân và mỗi dân tộc “đều có quyền tham gia, đóng góp vào và thụ hưởng những thành tựu từ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị” (Điều 1). Trong Tuyên bố Thiên niên kỷ[5],[6], các nhà lãnh đạo thế giới đã khẳng định cam kết phát huy tư tưởng dân chủ và cải thiện hệ thống pháp quyền, cũng như cam kết tôn trọng quyền con người và những quyền tự do cơ bản được quốc tế công nhận, bao gồm cả các quyền được tự do phát triển. Theo tài liệu chiến lược của Liên Hợp Quốc về Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs)[7],[8] mang tên “Liên Hợp Quốc và các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ: một chiến lược cốt lõi”, “các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ phải được đặt vào những quy phạm và tiêu chuẩn rộng lớn hơn của Tuyên bố Thiên niên kỷ”, bao gồm các lĩnh vực “Nhân quyền, Dân chủ và Quản lý hợp cách”.
Khái niệm “Quản lý hợp cách” trong các văn kiện quốc tế chính về quyền con người



Từ quan điểm nhân quyền, khái niệm “Quản lý hợp cách” có thể được liên kết với các nguyên tắc và quyền lợi được xác lập trong các văn kiện quốc tế chính về quyền con người. Điều 21 của Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế công nhận tầm quan trọng của một chính phủ cởi mở và hợp tác, còn Điều 28 nhấn mạnh rằng tất cả mọi người đều có quyền thụ hưởng một trật tự xã hội và quốc tế trong đó các quyền lợi và sự tự do nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền được thực hiện đầy đủ. Hai Công ước Quốc tế về Nhân quyền trình bày cụ thể hơn về nhiệm vụ và vai trò của chính phủ trong việc đảm bảo tất cả quyền con người được tôn trọng và thực hiện. Điều 2 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị yêu cầu các đảng phái tôn trọng và bảo đảm những quyền lợi được thừa nhận trong Công ước và thực hiện các bước cần thiết để thi hành các quyền đó. Đặc biệt, các quốc gia cần cung cấp giải pháp hiệu quả để bảo vệ cá nhân khi quyền lợi của họ bị xâm phạm, cũng như cung cấp một cơ chế tư pháp hoặc hành chính công bằng và hiệu quả đối với việc xác định các quyền cá nhân bị xâm phạm hoặc các hành vi xâm phạm ấy. Theo Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, các quốc gia có nghĩa vụ hành động với quan điểm hướng đến mục tiêu thực hiện được đầy đủ các quyền được thừa nhận trong Công ước bằng tất cả những giải pháp thích hợp.
Các cơ quan giám sát việc thực hiện những điều ước quốc tế về quyền con người đã lưu ý về một số yếu tố khác nhau trong quản lý hợp cách. Trong bình luận chung số 12, đối với quyền được cung cấp lương thực, Ủy ban Kinh tế, Xã hội và Văn hóa tuyên bố rằng “Quản lý hợp cách giữ vai trò trọng yếu trong việc hiện thực hóa tất cả các quyền con người, bao gồm việc xóa đói giảm nghèo và đảm bảo một cuộc sống thỏa đáng cho tất cả mọi người”. Ủy ban Quốc tế về Quyền Trẻ em đã nhiều lần đề cập vấn đề năng lực của các chính phủ trong điều phối chính sách vì lợi ích trẻ em, cũng như vấn đề phân cấp dịch vụ công và hoạch định chính sách. Ủy ban này cũng xác định nạn tham nhũng như một trở ngại lớn đối với kế hoạch đạt được các mục tiêu của Công ước. Ủy ban Nhân quyền Quốc tế thường phải giải quyết các vấn đề liên quan đến việc đề xuất những giải pháp công bằng, quy trình đúng thủ tục và xét xử công minh trong bối cảnh của nền hành pháp ở từng quốc gia. Ủy ban này thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống thẩm phán độc lập và có thẩm quyền để bảo vệ thích đáng các quyền được quy định trong Công ước.


[1] Ủy ban Nhân quyền hay Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (Human Rights Committee) là một cơ quan trực thuộc Liên Hiệp Quốc gồm 18 chuyên gia độc lập có nhiệm vụ thẩm tra các báo cáo định kỳ 4 năm một lần từ 162 nước thành viên Liên Hiệp Quốc về việc thực hiện Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, và giải quyết các khiếu nại nhân quyền của các cá nhân là công dân của 112 nước tham gia vào Nghị định thư bổ sung I. Ủy ban họp 3 lần trong một năm, mỗi lần kéo dài 4 tuần (kỳ họp mùa xuân tổ chức tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, mùa hè và mùa thu tại Genève). Đây là một trong 9 ủy ban thuộc hệ thống nhân quyền Liên Hiệp Quốc chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các công ước về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc
[2] http://ap.ohchr.org/documents/E/CHR/resolutions/E-CN_4-RES-2000-64.doc
[3] Văn bản do Liên Hợp Quốc công bố năm 1986, được thông qua bởi nghị quyết 41/128 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (the United Nations General Assembly resolution 41/128), sau đó được tái khẳng định trong Tuyên bố và Chương trình Hành động (Declaration and Programme of Action) năm 1993 ở Vienna.
[4] http://www.un.org/documents/ga/res/41/a41r128.htm
[5] Bản tuyên bố này là tài liệu chính của Hội nghị thượng đỉnh kéo dài 3 ngày tổ chức từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9 năm 2000 tại New York, hội nghị tập hợp các nhà lãnh đạo thế giới ở quy mô lớn nhất từ trước đến này. Tuyên bố Thiên niên kỷ là một tập hợp các giá trị, nguyên tắc và mục tiêu cho các chương trình nghị sự quốc tế được định ra cho thế kỷ XXI.
[6] http://www.un.org/millennium/declaration/ares552e.htm
[7] Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) là tám mục tiêu phát triển quốc tế đã được xác lập sau Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc vào năm 2000, sau khi Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc được thông qua. Tất cả 189 quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc vào thời điểm đó (hiện nay là 193), và ít nhất 23 tổ chức quốc tế đã cam kết cùng nỗ lực để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong năm 2015:
Xóa bỏ được tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu ăn

Phổ cập được giáo dục tiểu học trên toàn thế giới

Thúc đẩy bình đẳng giới

Giảm tỷ lệ tử vong trẻ em

Cải thiện sức khỏe các bà mẹ

Chống HIV / AIDS, sốt rét và các bệnh khác

Bảo đảm được tính bền vững của môi trường

Phát triển được một quan hệ đối tác toàn cầu cùng phát triển

[8] http://www.unmillenniumproject.org/goals/
© 2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – http://www.phiatruoc.info